Top 6 # Xem Nhiều Nhất Bệnh Sợ Những Lỗ Tròn Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Mgwbeautypageant.com

Bí Ẩn Về Chứng Bệnh Khiến Con Người Sợ Những Lỗ Tròn

Những người mắc chứng trypophobia thường bị ám ảnh, sợ hãi, buồn nôn khi nhìn thấy những thứ có nhiều lỗ tròn như tổ ong, đài sen hay bong bóng.

Kudzai Dube, 22 tuổi, đến từ Brisbane (Australia), mắc phải hội chứng sợ lỗ tròn, có tên khoa học là trypophobia. Cô luôn bị ám ảnh, sợ hãi với những đồ vật có lỗ tròn như miếng bọt biển, bánh xốp, đài sen… “Nếu không thể loại bỏ được hình ảnh chúng ra khỏi đầu, tôi phải đi tắm để cảm thấy tốt hơn”, Kudzai cho biết.

Kudzai cảm thấy khó chịu khi nhìn vào chiếc bánh xốp có những lỗ nhỏ không đều nhau. Ảnh: Thatslife.

Kudzai chia sẻ cô bắt đầu cảnh giác với những cái lỗ khi lên 5 tuổi. Nỗi ám ảnh của cô có thể đã được kích hoạt khi xem một bộ phim có chiếu hình ảnh những con giun bò vào mũi của mọi người.

Theo học ngành địa chất, Kudzai cho biết cô gặp nhiều rắc rối với chứng sợ lỗ này. Khi tham gia các chuyến đi thực địa, cô phải thu thập những viên đá có lỗ tròn nhưng không thể rũ bỏ cảm giác lo lắng.

Một lần, anh trai cô, Tererai, khoe với cô bức ảnh trên máy tính. “Đó là bức ảnh của một người phụ nữ, nhưng ai đó đã chỉnh sửa và thêm rất nhiều lỗ nhỏ trên cơ thể cô ấy. Làn da của cô ấy như thể được làm từ tổ ong. Tôi cảm thấy nổi da gà và bật khóc nức nở”, Kudzai nói.

Kendall Jenner, người mẫu nổi tiếng ở Mỹ, cũng là một trong số những người thừa nhận bản thân mắc chứng trypophobia. Trong một lần chia sẻ với người hâm mộ, Kendall cho biết: “Không nhiều người biết tôi sợ những lỗ tròn như tổ ong, lỗ sen, hay thậm chí là hình xăm lỗ tròn trên cơ thể người… Tôi thường thấy chóng mặt, buồn nôn khi nhìn thấy chúng”.

Kendall thừa nhận chứng bệnh này gây ra nhiều khó khăn cho cô khi thường xuyên phải mặc những trang phục có thiết kế lạ.

Kendall Jenner thừa nhận cô mắc chứng sợ lỗ. Ảnh: Harpersbazaar.

Chứng sợ lỗ là gì?

Trypophobia là nỗi ám ảnh phổ biến ảnh hưởng đến 15% dân số thế giới. Thuật ngữ này tương đối mới và chưa được công nhận là căn bệnh tâm lý. Vì vậy, nếu bạn chưa từng nghe về nó, đó không phải là điều kỳ lạ.

Trypophobia là nỗi sợ hãi mãnh liệt và không giải thích được của người bệnh khi nhìn thấy các mô hình, đồ vật, cụm lỗ nhỏ hoặc vết sưng. Những hình ảnh này có thể là tổ ong, đài sen, lỗ đục trên thân cây, bọt xà phòng, bong bóng, quả dâu tây, lựu…

Theo Medical News Today, khi nhìn thấy một cụm lỗ, những người mắc bệnh cảm thấy ghê tởm hoặc sợ hãi. Một số triệu chứng khác bao gồm buồn nôn, ngứa, ngất xỉu, chóng mặt, nổi da gà, đổ mồ hôi, hoảng loạn.

Tại sao chứng sợ lỗ lại tồn tại?

Xuất hiện lần đầu vào năm 2005, hội chứng này chưa được y học công nhận là một loại bệnh. Tuy nhiên, rất nhiều người cho biết họ cảm thấy thực sự sợ hãi trước những cái lỗ. Nhiều trường hợp nổi da gà, loạn nhịp tim, thậm chí khó thở. Nghiên cứu về hội chứng sợ lỗ vẫn còn khá hạn chế, nhưng có một số lý thuyết nói về lý do nó xảy ra.

Một giải thích khác cho rằng các lỗ cụm có chung hình dạng tương tự hoa văn ở một số động vật có nọc độc như rắn chuông, bạch tuộc vòng xanh… Con người phản ứng sợ hãi với những loài động vật nguy hiểm này và kích ứng trypophobia.

Ngoài ra, một số nghiên cứu cũng phát hiện nguyên nhân khiến nhiều người mắc chứng bệnh này là não bộ bị quá tải. Theo đó, những hình ảnh thủng lỗ chỗ khó chịu khiến khu vực chịu trách nhiệm phân tích thông tin thị giác không làm việc hiệu quả.

Khi đó, để xử lý thông tin này, não bộ yêu cầu nhiều oxy hơn. Tuy nhiên, đối với một số người, điều này khiến não bị quá tải, dẫn đến cơ thể phản ứng lại bằng các cảm giác như chóng mặt, buồn nôn… để buộc những người này không tiếp tục nhìn.

Chứng sợ lỗ có điều trị được không?

Điều này rất khó vì bạn không thể rời khỏi nhà mà không gặp phải bất kỳ lỗ tròn nào. Tuy nhiên, có một số cách khác nhau để điều trị nỗi ám ảnh. Hình thức hiệu quả nhất là điều trị tiếp xúc. Đó là loại trị liệu tâm lý, tập trung vào việc làm thay đổi phản ứng của người bệnh với đối tượng hoặc tình huống gây ra sợ hãi.

Ngoài ra, các lựa chọn điều trị khác có thể giúp bạn kiểm soát sự ám ảnh bao gồm:

– Thay đổi lối sống: Bao gồm tập thể dục, tiêu thụ thực phẩm lành mạnh, ngủ đủ giấc, tránh dùng caffeine và các chất kích thích

– Liệu pháp tâm lý: Nói chuyện với một chuyên gia hoặc bác sĩ tâm lý

– Sử dụng thuốc: Đôi khi, các bác sĩ sẽ kê một số loại thuốc điều trị chứng ám ảnh và lo lắng như thuốc chẹn beta, an thần, chống trầm cảm

– Các kỹ thuật thư giãn: Một số động tác như hít thở sâu và yoga có thể giảm sợ hãi.

Theo Phương Mai/Zing.vn

Link gốc:

Nguồn Gốc Của Hội Chứng Sợ Lỗ (Trypophobia)

Hội chứng sợ lỗ (có tên khoa học là Trypophobia) là một hội chứng ám ảnh khi quan sát các vật có lỗ nhỏ hoặc vết thâm. Khi mọi người nhìn thấy những hình ảnh này, một loạt các phản ứng được kích hoạt. Họ gặp phải các triệu chứng như sợ hãi nghiêm trọng, , ngứa, đổ mồ hôi, run rẩy và thậm chí là các cơn hoảng loạn.

Sợ hãi là một triệu chứng phổ biến, nhưng “sự ghê tởm” thường được mô tả là cảm xúc áp đảo mà mọi người cảm thấy với hội chứng này. Trypophobia cũng có tính trực quan cao. Chỉ cần người mắc chứng này xem hình ảnh trực tuyến hoặc bản in là đủ để kích hoạt cảm giác sợ hãi, nỗi kinh hoàng hoặc lo lắng.

Nghiên cứu về hội chứng sợ lỗ vẫn còn tương đối hiếm, một số đối tượng kích hoạt chuỗi phản ứng của hội chứng đã được tìm thấy bao gồm:

Hoa văn nhân tạo, cũng như những động vật có lông, da đốm hoặc hoa văn, cũng có thể gây ra phản ứng sợ lỗ.

Sau khi nhìn thấy các cụm lỗ nhỏ hoặc vết sưng, mọi người thường sẽ có phản ứng:

Ngoài việc trải qua các triệu chứng như sợ hãi và ghê tởm, những người mắc bệnh trypophobia thường sẽ trải qua những thay đổi hành vi, phổ biến nhất là tránh các đối tượng kích hoạt. Ví dụ, một người có thể tránh ăn một số loại thực phẩm (như dâu tây hoặc chocolate có bọt) hoặc tránh đi đến một số nơi nhất định (chẳng hạn như một căn phòng có giấy dán tường chấm bi).

Nghiên cứu về hội chứng sợ lỗ vẫn còn khá hạn chế, nhưng có một số lý thuyết về lý do tại sao nó xảy ra.

Một giả thuyết khác cho rằng các cụm lỗ có chung một hình dạng tương tự như hoa văn da và lông trên một số động vật có nọc độc. Mọi người có thể sợ những hình ảnh này một cách vô thức.

Các nhà nghiên cứu tin rằng những người mắc chứng trypophobia vô thức thường liên hệ hình ảnh tổ ong với các sinh vật nguy hiểm, như rắn chuông. Mặc dù họ không có ý thức về mối liên hệ này, nhưng nó có thể là nguyên nhân khiến họ cảm thấy ghê tởm hoặc sợ hãi.

Một nghiên cứu năm 2017 cho thấy những người tham gia có xu hướng liên hệ hình ảnh các lỗ với mầm bệnh lây truyền qua da, với nhiều báo cáo về cảm giác ngứa da và kiến bò dưới da khi xem các mẫu như vậy.

Ghê tởm hoặc sợ các mối đe dọa tiềm tàng là một phản ứng tiến hóa thích nghi. Trong nhiều trường hợp, những cảm giác này giúp chúng ta an toàn khỏi nguy hiểm. Trong trường hợp trypophobia, các nhà nghiên cứu tin rằng nó có thể là một hình thức quá mức và phóng đại của phản ứng thích nghi thông thường này.

Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng những người mắc chứng sợ lỗ có nhiều khả năng gặp phải các triệu chứng lo âu và . Các triệu chứng của trypophobia cũng được nhận thấy là dai dẳng và kéo dài, dẫn đến suy giảm chức năng trong cuộc sống hàng ngày và tăng nguy cơ mắc các tình trạng khác như rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD).

Không có phương pháp điều trị cụ thể hiệu quả đối với tình trạng này. Tuy nhiên, nhiều phương pháp điều trị được sử dụng cho các nỗi ám ảnh cụ thể cũng có khả năng hữu ích trong việc giảm các triệu chứng.

Liệu pháp phơi nhiễm (tiếp xúc)

Đây là biện pháp cho một người tiếp xúc dần dần với đối tượng họ sợ hãi với hy vọng theo thời gian, việc tiếp xúc này sẽ khiến các triệu chứng giảm bớt. Bệnh nhân có thể bắt đầu bằng cách tưởng tượng những gì họ sợ, sau đó nhìn vào hình ảnh của đối tượng, và cuối cùng là ở gần hoặc thậm chí chạm vào đối tượng đó.

Trong trường hợp trypophobia, một người có thể bắt đầu điều trị bằng cách nhắm mắt lại và tưởng tượng một vật thể như tổ ong hoặc vỏ hạt. Họ sẽ lặp lại hành động này cho đến khi các triệu chứng bắt đầu giảm. Một khi bệnh nhân có thể tưởng tượng ra vật thể mà không có phản ứng gì, họ sẽ chuyển sang bước tiếp theo: nhìn vào hình ảnh của vật thể.

Một trong những lý do khiến mọi người gặp phải các triệu chứng ám ảnh là vì họ thường tin rằng các đối tượng đó vốn đã nguy hiểm hoặc đe dọa. Điều này dẫn đến những suy nghĩ tự động tiêu cực ngay khi họ thấy vật thể đó.

Thuốc chống trầm cảm hoặc chống lo âu đôi khi có thể được bác sĩ kê toa, đặc biệt nếu bệnh nhân cũng bị trầm cảm hoặc lo lắng. Các thuốc bao gồm các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI), thuốc nhóm benzodiazepin hoặc thuốc chẹn beta. Những loại thuốc này có thể được sử dụng đơn độc, nhưng thường được sử dụng kết hợp với phương pháp điều trị khác như CBT, liệu pháp tiếp xúc hoặc các loại trị liệu tâm lý khác.

Dược sĩ Phạm Thị Thúy Diễm

Trypophobia Là Bệnh Gì? Từ A Đến Z Thông Tin Về Hội Chứng Sợ Lỗ

Số lượt đọc bài viết: 1.428

1 Tìm hiểu Trypophobia là bệnh gì?

2 Nguyên nhân bệnh trypophobia là gì?

3 Các biểu hiện của bệnh trypophobia

4 Chẩn đoán bệnh trypophobia như thế nào?

5 Hội chứng sợ lỗ và cách điều trị Trypophobia

Tìm hiểu Trypophobia là bệnh gì?

Trypophobia lần đầu tiên được biết đến vào năm 2005, tuy nhiên lúc bấy giờ y học thế giới không công nhận đây là một dạng bệnh lý. Thế nhưng ngày càng nhiều người đến gặp các bác sĩ và thận phiền rằng họ cảm thấy sợ hãi mỗi khi vào những vật lỗ rỗ. Thậm chí có những người phải nhập viện điều trị vì quá sợ hãi. Chính vì vậy, rất nhiều nghiên cứu được tiến hành để tìm ra lời giải về căn bệnh này.

Nguyên nhân bệnh trypophobia là gì?

Theo Arnold và đồng nghiệp, hội chứng sợ lỗ được hình thành trong quá trình tiến hoá của con người và đây là chứng bệnh bẩm sinh không chịu tác động từ bên ngoài. Quá trình này mang tính sinh học do não bộ hình thành một hệ thống có chức năng cảnh giác với những tác động có thể gây nguy hiểm. Theo báo cáo của nhóm nghiên cứu khi tìm hiểu trypophobia là bệnh gì, nguyên nhân gây sự sợ hãi không chỉ là những vật có hình dạng lỗ rỗ như tổ ong mà bất kể vật gì có thể đe dọa gây nguy hiểm đến con người.

Hiện tượng này diễn ra liên tiếp và lặp lại nhiều lần có thể dẫn đến nhiều biến chứng khác và hình thành nên hội chứng sợ lỗ. Hiện nay, các nhà khoa học vẫn tiếp tục nghiên cứu để tìm hiểu trypophobia là bệnh gì cũng như tìm hiểu các nguyên nhân gây bệnh trypophobia là gì.

Các biểu hiện của bệnh trypophobia

Ngoài việc tìm hiểu trypophobia là bệnh gì thì việc quan tâm đến biểu hiện bệnh trypophobia (hội chứng sợ lỗ) cũng rất cần thiết.

Các biểu hiện của bệnh trypophobia bao gồm:

Cảm thấy sợ hãi, nổi gai ốc khi nhìn vào những vật có hình lỗ chỗ như dép tổ ong, bát hoa sen, tổ ong, lỗ trên cây…

Đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn.

Tim nhịp nhanh, toát mồ hôi lạnh…

Một số người lên cơn đau tim, đột quỵ, tăng huyết áp, choáng ngất khi nhìn thấy những hình ảnh này.

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh đó là không phải tất cả những người xuất hiện một trong các biểu hiện trên khi nhìn thấy hình lỗ đều mắc bệnh trypophobia. Có rất nhiều người tự ám thị bản thân hoặc khi nhìn thấy người khác bị cũng cảm thấy sợ hãi theo. Những biểu hiện này không phải là bệnh trypophobia.

Chẩn đoán bệnh trypophobia như thế nào?

Mặc dù có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về bệnh trypophobia, tuy nhiên việc chẩn đoán bệnh gặp rất nhiều khó khăn. Bởi lẽ, không có một tiêu chuẩn cụ thể để chẩn đoán mà cần mất rất nhiều thời gian để quan sát triệu chứng cũng như làm các thăm dò cận lâm sàng mới có thể đưa ra các kết luận chính xác có mắc bệnh trypophobia hay không.

Hội chứng sợ lỗ và cách điều trị Trypophobia

Để điều trị triệt để bệnh trypophobia cần điều trị theo nguyên nhân. Tuy nhiên, đến thời điểm này vẫn chưa thực sự xác định được nguyên nhân gây bệnh trypophobia là gì. Chính vì vậy, vấn đề điều trị bệnh trypophobia không đạt được hiệu quả như mong đợi.

Tu khoa lien quan

hội chứng sợ lỗ tròn

hội chứng sợ cái lỗ

hội chứng bệnh sợ lỗ

hội chứng sợ lỗ trypophobia

hội chứng sợ những cái lỗ

tìm hiểu về trypophobia test

hội chứng sợ lỗ và cách điều trị

trypophobia – hội chứng sợ những cái lỗ

Please follow and like us:

Bệnh Dại (Bệnh Sợ Nước)

Tên khác; bệnh sợ nước

Bệnh do virus từ động vật truyền sang người, gây viêm não-tuỷ, gây tử vong.

Virus dại (lyssavirus) là một rhabdovirus có trong nước bọt động vật bị dại. Chó bị dại thường hung hãn (vật vã, giãy giụa, sùi bọt mép, rồi bị liệt) hay có các thể “tiềm tàng” (chó vô cảm, tiết nhiều nước bọt). Trong cả hai thể, chó bị chết trong vòng 10-15 ngày. Mèo bao giờ cũng bị thể “hung hãn”. Động vật truyền bệnh từ 3-5 ngày trước khi có triệu chứng xuất hiện cho đến lúc chết. Xác chết vẫn còn khả năng truyền bệnh (cần xử lý cẩn thận).

Từ 1990, số trường hợp bị dại ở các nước châu Âu đã giảm do các chiến dịch cho động vật hoang dã uống thuốc phòng dại.

Bệnh lây truyền do bị động vật bị dại cắn, do nước bọt con vật bị dại tiếp xúc với vết thương có ở da hoặc ở niêm mạc. Bệnh dại ở thành phố là do động vật nuôi không được tiêm phòng (do chó, hiếm hơn là do mèo và các động vật nuôi cảnh). Thể hoang dã có ở miền Nam châu Âu và là thể chủ yếu ở Pháp là do cáo. Bệnh có thể truyền sang động vật nuôi (chó, bò) rồi sang người. Vectơ truyền bệnh ở Đông Âu và ở vùng Bắc cực có thể là chó sói; ở Nam Phi và Caribe là cầy hôi; ở Mỹ Latinh là một số loài dơi. Động vật gậm nhấm, thỏ rất ít khi bị dại. Những nước không có bệnh dại thường là các quốc đảo: Anh, Australia, Nhật bản, Hawaii, Haiti; các nước này chỉ cho nhập động vật sau khi đã cách ly 4-6 tháng.

Tại châu Phi, các virus có họ hàng với virus dại (virus Mokala, Duvenhage) gây bệnh tương tự ở người. Đã có một số trường hợp bị dại truyền qua ghép giác mạc.

Giải phẫu bệnh

Virus dại có tính hướng thần kinh và đi theo các dây thần kinh ngoại biên tối tủy sống và não rồi nhân lên ở đó. Một số tới tuyến nước bọt và ra theo nước bọt.

Trong não có hiện tượng lympho thâm nhiễm xung quanh mạch máu, tế bào não “bị ăn” và có thể nhìn thấy được các thể Negri trong các tế bào thần kinh, ở sừng Ammon, trong tiểu não và ở các hạch.

Triệu chứng

ủ BỆNH: trung bình 1 đến 2 tháng (từ 10 ngày đến nhiều tháng). Nếu bị cắn sâu hay ở gần đầu thì thời gian ủ bệnh ngắn và bệnh tiến triển rất nhanh.

CƠN DẠI: ngứa, kiến bò, loạn cảm, đau ở quanh chỗ bị cắn. Bệnh nhân lo âu, sốt, vật vã. Đôi khi có hoang tưởng và thao cuồng. Thở ngắt quãng, nhiều nước bọt, có những cơn co thắt thanh quản và họng rất đau đón. Chỉ cần nhìn thấy một cốc nước là làm xuất hiện các cơn co thắt (“sợ nước”). Bất kỳ kích thích nào cũng làm xuất hiện cơn co thắt. Sau giai đoạn có các cơn co đến giai đoạn liệt, có tổn thương hành não và chết sau 2-4 ngày do liệt hô hấp. Giai đoạn có các cơn co (dại “bại liệt”) có thể không có.

Bệnh dại cũng có thể – nhất là ở người đã được tiêm phòng dại- biểu hiện như một hội chứng Guillain- Barré hay liệt lên cao của Landry (dại “yên tĩnh”).

Xét nghiệm cận lâm sàng

Lấy bệnh phẩm ở động vật hay người bị nghi ngờ mắc (nước bọt, dịch não tuỷ, chất tiết ở vết thương). Lấy bệnh phẩm ở não khi mổ tử thi.

Phát hiện kháng nguyên dại bằng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (cho kết quả sau 2 giờ) hay bằng phương pháp RREID (chẩn đoán nhanh dại bằng miễn dịch enzym, Rapid Rabies Enzyme Immunodiagnosis).

Phân lập virus bàng cách tiêm truyền vào não chuột con hay vào các dòng tế bào sinh nơron của người.

Đã bị động vật cắn hoặc tiếp xúc với con vật bị nghi ngờ.

Lo âu, vật vã, mê sảng.

Tiết nhiều nước bọt, co giật, liệt và rối loạn hô hấp.

Xác định chẩn đoán bằng xét nghiệm não động vật bị nghi ngà.

Chẩn đoán phân biệt với: các bệnh khác được truyền qua vết động vật cắn. Nếu không có thì chẩn đoán phân biệt với uốn ván, viêm màng não, viêm não cấp, liệt sau tiêm vacxin. Có thể có cơn hysteri do sợ hãi sau khi bị động vật cắn làm nhầm lẫn với cơn dại.

Bệnh dại đã lên cơn bao giờ cũng gây tử vong. Nếu áp dụng biện pháp phòng ngừa ngay lập tức sau khi bị động vật dại cắn thì tỷ lệ tử vong trung bình là dưới 1%.

Thuốc an thần như với uôn ván, hô hấp viện trợ. Không có trị liệu chữa khỏi bệnh.

Phòng dại sau khi bị động vật nghi mắc dại cắn: Nếu có thể, tới trung tâm phòng dại hay cơ sở thú y để có lời khuyên và biện pháp hợp lý nhất, tuỳ theo thông tin về dịch tễ học và về tiền sử.

KHÁM TẠI CÁC TRUNG TÂM CHUYÊN KHOA: phần lớn các nước có các cơ sở y tế công ở tuyến trung ương hoặc địa phương chuyên trách phòng trừ bệnh dại. Khi bị súc vật cắn hay khi nghi ngờ, bác sĩ cần hỏi ý kiến các trung tâm này để có chỉ dẫn thích hợp nhất dựa trên tiền sử và hoàn cảnh.

1

Do tiếp xúc, cho động vật ăn, động vật liếm trên da lành lặn.

Không cẩn nếu tiền sử là đáng tin

II

Da hở, có vết cắn.

Vết cào hay vết xước không chảy máu. Liếm trên phần da bị trầy trợt.

Tiêm vaccln ngay lập tức.

Ngừng trị liệu nếu sau 10 ngày theo dõi hay sau khi làm xét nghiệm với các kỹ thuật phù hợp thấy động vật không bị dại 2.

III

Vết cắn hay vết cào xuyên qua da. Niêm mạc bị nhiễm nước bọt.

Tiêm ngay lập tức gammaglobulin và vaccin dại.

Ngừng trị liệu nếu sau 10 ngày theo dõi hay sau khi làm xét nghiệm với các kỹ thuật phù hợp thấy động vật không bị dại 3.

Điều trị tại chỗ: biện pháp bảo vệ có hiệu quả nhất là lau rửa vết thương hay vết cắn bằng xà phòng rồi bôi cồn hoặc dung dịch có iod. Không được khâu kín ngay vết thương; nếu cần thì tiêm ngay các globulin miễn dịch.

Tiếp xúc với động vật gậm nhấm, thỏ hay thỏ rừng không đòi hỏi phải điều trị đăc hiệu chống dại.

Nếu chó hoặc mèo tỏ ra mạnh khoẻ, ở một vùng (t có nguy cơ bị dại hoặc từ vùng ít bị dại tới và được theo dõi thì có thể bắt đầu trị liệu muộn hơn.

Thời gian theo dõi này không áp dụng cho chó hoặc mèo. Trừ các loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng hay bị đe doạ tuyệt chủng, các động vật nuôi và động vật hoang dại bị nghi ngờ là mắc dại phải được gây mê và xét nghiệm các mô bởi các kỹ thuật labô thích hợp.

ĐIỀU TRỊ TẠI CHỖ: lau rửa vết thương bằng nước xà phòng 20%. Không khâu kín vết thương nếu không thật cần thiết. Bôi tại chỗ một chất sát khuẩn có ammonium bậc 4. Phong bế vaccin dại quanh vết thương và tiêm nhắc lại vaccin chống uốn ván. Nếu vết thương nặng nên dùng thêm penicillin.

THEO DÕI ĐỘNG VẬT BỊ NGHI NGỜ: không giết động vật bị nghi ngờ mà phải nhốt lại và theo dõi. Nếu trong vòng 10 ngày, động vật không có biểu hiện gì thì có thể loại trừ bị dại. Nếu là động vật hoang hay động vật có dấu hiệu nghi ngờ thì phải giết ngay và mang não đi xét nghiệm để tìm kháng thể huỳnh quang chống dại. Kỹ thuật nhanh này thay thế cho xét nghiệm tế bào tìm thể Negri.

MIỄN DỊCH CHỦ ĐỘNG (VACCIN) VÀ THỤ ĐỘNG (globulin miễn dịch kháng dại hay nếu thiếu không có thì dùng huyết thanh chống đại): nói chung, kết hợp miễn dịch chủ động với miễn dịch thụ động.

Vaccin phòng dại (xem vaccin này): nên tiêm vào cơ delta, sẽ cho lượng kháng thể nhiều hơn.

Globulin miễn dịch kháng dại: tiêm ngay lập tức một liều 20 đơn vị/kg một nửa liều xung quanh vết cắn; còn một nửa liều thì tiêm vào bắp thịt ở chỗ khác chỗ đã tiêm vaccin (cơ bụng hay cơ mông). Nếu không có thì tiêm huyết thanh chống dại có nguồn gốc động vật (ngựa) với liều 40 đơn vị/kg. Huyết thanh thường gây bệnh huyết thanh và có thể cần phải tiêm theo phương pháp Besredka cho người bị mẫn cảm.

Phòng bệnh: tiêm phòng cho chó, diệt chó hoang. Giảm số lượng cáo (săn bắn và phun hơi vào hang cáo trong vùng có bệnh lưu hành). Tiêm phòng và kiểm soát động vật cảnh nhập (một số nước quy định phải cách ly 4 tháng). Tiêm phòng cho những người có nguy cơ do nghề nghiệp (thú y, kiểm lâm, nhân viên phòng xét nghiệm) và kiểm tra kháng thể sau khi tiêm phòng. Thông báo cho cơ quan y tế nếu thấy có động vật bị nghi ngờ dại.