Top 5 # Xem Nhiều Nhất Bệnh Sốt Rét Xảy Ra Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Mgwbeautypageant.com

Lý Giải Vì Sao Bệnh Sốt Rét Hay Xảy Ra Ở Miền Núi

Vì sao bệnh sốt rét hay xảy ra ở miền núi? Sốt rét đe dọa tính mạng do ký sinh trùng Plasmodium gây ra. Khi bị muỗi Anopheles đốt, ký sinh trùng sẽ truyền vào máu để gây bệnh. Đối với những người bị sốt rét, bạn có thể bị sốt tái phát và theo chu kỳ, kéo dài 2 đến 3 ngày một lần.

Muỗi Anopheles thường sinh sản ở vùng nước ngọt. Đặc điểm của loại muỗi này là có bụng nhỏ, trên cánh có vảy trắng đen. Muỗi Anopheles thường hoạt động mạnh vào buổi tối sau khi mặt trời lặn và là loài muỗi gây bệnh sốt rét cho người.

Trả lời câu hỏi vì sao bệnh sốt rét thường hay xảy ra ở các vùng miền núi vì nó lây truyền qua muỗi Anopheles trung gian. Trong khi đó, lăng quăng hay bọ gậy của muỗi Anopheles thường phát triển ở những nơi có nước đọng, nước chảy chậm, ánh nắng, cây cối, rong rêu. Tạo điều kiện thích hợp cho loài muỗi này phát triển.

Một trong những loài muỗi thuộc giống Anopheles, virus Anopheles, có khả năng truyền bệnh sốt rét rất cao. Trong khi đó, đặc điểm của muỗi vằn chủ yếu sống ở các vùng núi, nơi nó cắn các loài linh trưởng và con người.

Vì sao bệnh sốt rét thường hay xảy ra ở miền núi?

Con người bị muỗi Anopheles đốt, ký sinh trùng sốt rét được truyền vào máu. Trong khi đó, các ký sinh trùng cư trú trong cơ thể sẽ di chuyển đến gan để phát triển. Và một số loại có thể ngủ yên trong một năm.

Thông thường, sau một vài ngày, ký sinh trùng trưởng thành xâm nhập vào máu và bắt đầu lây nhiễm các tế bào hồng cầu bình thường trong khoảng thời gian từ 48 đến 72 giờ và làm cho các tế bào bị nhiễm bệnh vỡ ra.

Tại sao bệnh sốt rét thường xảy ra ở miền núi vì miền núi là nơi cư trú của muỗi Anopheles. Sốt rét có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai nếu không có sự cảnh giác. Tuy nhiên, bệnh sốt rét có thể được kiểm soát được bằng cách giảm các yếu tố nguy cơ từ bên ngoài.

Nguy cơ lây truyền bệnh sốt rét ở miền núi

Người dân sống ở khu vực miền núi cần chủ động tìm các biện pháp phòng tránh. Do điều kiện, việc hiểu và tiếp cận các điều kiện y tế trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra, vấn đề môi trường, vệ sinh môi trường không đảm bảo cũng là điều kiện tạo cơ hội cho bệnh sốt rét lây lan nhanh ở các vùng miền núi.

Không chỉ vậy, theo phân tích bệnh sốt rét thường xảy ra ở các vùng núi. Các nhà khoa học phát hiện ra rằng khi nhiệt độ tăng, bệnh sốt rét ảnh hưởng đến những người ở độ cao lớn hơn so với khi nhiệt độ thấp hơn.

Sự thay đổi nhiệt độ cũng có thể ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh sốt rét ở những quần thể sống trên mực nước biển cao. Đây là nguyên nhân khiến người dân miền núi dễ mắc bệnh sốt rét.

Giải pháp để ngăn ngừa căn bệnh sốt rét ở miền núi

Người dân miền núi trình độ dân trí thấp, thiếu hiểu biết về bệnh sốt rét nên chưa được tiếp cận với các loại thuốc xịt muỗi, bọ gậy, đặc biệt là ở vùng núi, điều kiện cho muỗi vằn phát triển.

Cần áp dụng chặt chẽ các biện pháp sau đây:

Thường xuyên ngủ màn, kể cả ban ngày, màn cần được tẩm hóa chất chống muỗi. Đây là cách tốt nhất để ngăn ngừa bệnh sốt rét.

Sử dụng một số biện pháp chống muỗi như: Dùng màn, nhang muỗi, bôi kem chống muỗi. Khi làm việc ban đêm cần mặc quần áo dài tay để chống muỗi đốt.

Cần vệ sinh môi trường xung quanh, loại bỏ nơi trú ngụ của muỗi như phát quang bụi rậm, khơi thông cống rãnh. Sắp xếp các vật dụng trong nhà ngăn nắp, sạch sẽ, quần áo mặc phải gọn gàng. Nên treo hoặc treo quần áo trên tường để có chỗ cho muỗi.

Người dân đi làm ăn ở miền núi cần mang mùng đi ngủ, trước khi đi đến cơ sở y tế để được cấp thuốc phòng bệnh và khi từ miền núi trở về nên đến cơ sở y tế để được khám, kiểm tra. Nếu có sốt rét, các bác sĩ sẽ được điều trị kịp thời.

Run rẩy, sốt nóng, sau đó vã mồ hôi hoặc cảm thấy ớn lạnh là các triệu chứng của bệnh sốt rét đó. Lúc có triệu chứng như vậy bạn cần đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được chẩn đoán và điều trị theo liệu trình.

Những thông tin xoay quanh vấn đề: Vì sao bệnh sốt rét hay xảy ra ở miền núi mà mình vừa cung cấp trên mong là sẽ hữu ích với bạn đọc. Mọi người cần chú ý giữ gìn vệ sinh môi trường xung quanh để hạn chế sự lây lan của căn bệnh nguy hiểm này.

Bệnh Sốt Rét, Triệu Chứng Cách Phòng Bệnh Sốt Rét?

Mùa hè với khí hậu nóng bức thường là nguyên nhân của rất nhiều loại bệnh ngoài da, bệnh tay chân miệng và bệnh sốt rét cũng nằm trong số đó. Sốt rét là một bệnh truyền nhiễm do ký sinh trùng sốt rét Plasmodium hoặc do muỗi Anophen gây nên. Đặc điểm của muỗi Anophen là có thể hút máu từ người này rồi lây nhiễm qua người khác nên bệnh sốt rét rất nguy hiểm vì sức lây nhiễm và lây lan nhanh.

Triệu chứng của bệnh sốt rét?

Triệu chứng của bệnh sốt rét có thể nặng hoặc nhẹ tùy thuộc vào cơ địa và tình trạng miễn nhiễm của người bệnh và phân ra thành các thời kỳ

1) Bệnh sốt rét Thời kù ủ bệnh

– Thời gian này thông thường kéo dài từ 9 đến 30 ngày có thể thay đổi tùy theo mức độ nặng hay nhẹ và sự khác nhau của từng loại ký sinh sinh trùng sốt rét

2) Bệnh sốt rét Thời kỳ phát bệnh

– Giai đoạn đầu thời kỳ phát bệnh sốt rét, biểu hiện của người bệnh giai đoạn đoạn này là người bệnh bị đau mỏi các khớp, cơ, người có biểu hiện gai rét, tiếp theo người bệnh bị sốt cao có thể lên đến 39-40oC

– Giai đoạn 2 tiếp theo của thời kỳ phát bệnh sốt rét : thời gian kéo dài sau khoảng 2 tuần, người bệnh có biểu hiện bị sốt rét, sốt nóng diễn ra liên tục theo chu kỳ và thường sốt kéo dài từ 6-12h kèm theo triệu chứng người vã mồ hôi, suy nhược, rối loạn tiêu hóa, mệt mỏi…. Với những người bi sốt rét thường xuyên sẽ kèm theo các triệu chứng như thiếu máu mãn tính với các biểu hiện dễ nhìn thấy như chóng mặt, da xanh, suy kiệt

3) Bệnh sốt rét Thời kỳ lui bệnh

– Người bệnh không còn bất kỳ một biểu hiện nào của 2 thời kỳ trên và ký sinh trùng trong cơ thể người bệnh được điều trị triệt để. Với những người thường xuyên mắc bệnh sốt rét thì cần phải theo dõi người bệnh trong vài năm để điều trị cho đến khi không còn xuất hiện bất kỳ một ký sinh trùng nào trong cơ thể người bệnh nữa.

Cách phòng bệnh sốt rét?

– Phòng bệnh sốt rét bằng cách cần phát hiện nguồn bệnh kịp thời để có cách điều trị và quản lý hợp lý và nhanh nhất

– Diệt muỗi bằng hóa chất, phòng muỗi đốt bằng cách ngăn sự tiếp xúc giữa người và muỗi Anophen truyền bệnh sốt rét

– Với những người phải đi vào vùng có sốt rét cần cho người đi vào đó uống thuốc phòng chống sốt rét

– Ở những vùng bệnh đang có dịch sốt rét cần:

+ Luôn luôn nhớ phải bỏ màn trước khi ngủ và màn phải được phun hoặc tẩm hóa chất diệt muỗi

+ Phải mặc quần dài, áo dài tay khi đi làm và bôi thuốc xua muỗi lên những vùng da hở tránh để muỗi tiếp xúc vào da

Nguyên Nhân Sốt Rét? Bệnh Sốt Rét Nên Ăn Gì

Hiểu như thế nào về bệnh sốt rét

Bệnh có thể lây từ người sang người nếu các đối tượng đều bị muỗi mang trùng đốt, hoặc đốt từ người bệnh sang người lành. Khi đã mắc, bạn có thể gặp những cơn sốt theo chu kì cứ 2 – 3 ngày lại sốt một lần. Trong một số trường hợp, bệnh có thể gây tử vong nếu không điều trị sớm.

Bệnh do những nguyên nhân nào gây ra

Đặc biệt hơn, hai loài P.falciparum và P.vivax tuy cũng gây bệnh nhưng lại có tỷ lệ tử vong thấp hơn rất nhiều so với các loài còn lại. Các ký sinh trùng này không thể tồn tại ở môi trường bên ngoài mà cần phải có cơ thể vật chủ (muỗi Anophen, con người) mới có thể tồn tại và phát triển.

Những triệu chứng khi mắc bệnh

Thời gian ủ bệnh còn tùy thuộc vào muỗi Anophen đang mang trùng loài ký sinh nào như: đối với P.falciparum thì thời gian ủ bệnh trung bình là 12 ngày, P.vivax trung bình 14 ngày, P.malariae là 20 ngày thậm chí là một tháng, P.ovale từ 11 ngày đến 10 tháng. Theo như phân loại của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) thì bệnh sốt rét ở Việt Nam được chia làm hai loại như sau:

Sốt rét thông thường

Sốt sơ nhiễm: Dạng sốt này thường xuất hiện đầu tiên nhưng không điển hình, sốt cao liên tục trong vài ngày và hay bị nhầm lẫn với những bệnh thông thường.

Sốt điển hình: Dạng này được chia thành 3 giai đoạn khác nhau: Giai đoạn rét run, toàn thân run rẩy, môi tái, nổi da gà, kéo dài từ 30 phút đến 2 giờ. Giai đoạn sốt nóng, lúc này bệnh nhân giảm triệu chứng run mà bắt đầu nóng dần lên thân nhiệt có thể đạt đến 41 độ, mặt đỏ, da khô, tim đập nhanh, thở mạnh, nhức đầu và khát nước, có thể kéo dài đến 3 giờ. Giai đoạn vã mồ hôi, lúc này thân nhiệt lại giảm, bệnh nhân ra mồ hôi nhiều, giảm nhức đầu, khát nước, giai đoạn này bệnh nhân cảm thấy dễ chịu.

Sốt thể cụt: Những cơn sốt không xuất hiện thành cơn mà chỉ thấy biểu hiện rét run, có thể kéo dài từ 1 – 2 giờ. Thể sốt này chỉ thường gặp ở những bệnh nhân mắc bệnh sốt rét nhiều năm.

Ký sinh trùng lạnh: Dạng này chỉ gặp ở những người đã khỏi bệnh nhưng vẫn còn mầm bệnh trong cơ thể. Những người này khi xét nghiệm thì vẫn cho kết quả dương tính với bệnh nhưng không có biểu hiện sốt, sức khỏe ổn định bình thường.

Sốt ác tính

Dạng bệnh này gồm có 4 thể:

Thể não: Người bệnh có biểu hiện rối loạn ý thức, sốt cao liên miên, nhức đầu dữ dội, tiêu chảy không kiểm soát,… đây là những dấu hiệu của tiền ác tính. Bệnh nhân mắc bệnh ác tính thể não tỷ lệ tử vong cao.

Thể giá lạnh: Thể này người bệnh bị tụt huyết áp, da xanh tái nhợt, đổ mồ hôi nhiều, nhức đầu dữ dội, toàn thân lạnh.

Thể tiêu hóa: Bệnh nhân đau bụng dữ dội, buồn nôn, tiêu chảy, thân nhiệt hạ.

Thể gan: Thể này da của người bệnh có màu vàng, củng mạc mắt vàng, phân và nước tiểu vàng, có thể buồn nôn hoặc nôn.

Những người có nguy cơ mắc bệnh

Trẻ em và trẻ sơ sinh có nguy cơ rất lớn mắc bệnh, vì lứa tuổi này không thể tự bảo vệ mình khi muỗi đốt do đó lứa tuổi này rất dễ bị muỗi tấn công.

Những người đi đến nơi có dịch sốt rét.

Những vùng quê khó khăn vì nơi đây điều kiện sinh hoạt ô nhiễm thiếu thốn và ít được tiếp xúc với thông tin truyền thông, không biết cách để phòng ngừa bệnh.

Những người nghi ngờ mình bị muỗi Anophen đốt nhưng lại không đến cơ sở y tế để kiểm tra cũng có nguy cơ cao mắc bệnh.

Phòng và điều trị bệnh

Bệnh sốt rét tuy nguy hiểm nhưng lại rất dễ kiểm soát, sau đây là một số cách phòng và điều trị bệnh:

Phòng tránh bệnh

Phun thuốc muỗi định kỳ trong nhà và ngoài vườn.

Giữ gìn vệ sinh nhà cửa sạch sẽ, dọn dẹp những nơi ao tù, nước đọng vì đây sẽ là nơi sinh sản của muỗi.

Khi đi ngủ phải thả màn kể cả buổi trưa hay buổi tối. Đi đến nơi có dịch thì hãy mang theo thuốc đuổi muỗi, mặc áo dài tay, quần dài hạn chế để muỗi đốt.

Bệnh sốt rét nên ăn gì

Nên uống nhiều nước

Khi cơ thể bị mất nước, vi rút có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn. Lúc bị sốt, bạn nên uống nhiều nước lọc hơn bình thường để bổ sung lượng nước đã mất đi. Việc cung cấp đủ nước khi sốt sẽ giúp bạn không bị kiệt sức, các độc tố trong cơ thể cũng sẽ được loại bỏ. Có thể dùng nước đun sôi để nguội pha với hydrit hoặc oresol để bù điện giải.

Nên ăn thức ăn lỏng

Các dạng thức ăn như soup, bún, phở, đồ ăn loãng dễ nuốt được nấu cùng với thịt gà, thịt heo, thịt bò sẽ góp phần giúp bạn bổ sung được dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, xoa dịu cơn khó chịu.

Uống nhiều nước hoa quả, sinh tố

Bệnh sốt rét nên ăn gì? Các loại trái như cam, chanh, dâu tây, xoài, chuối… hoặc các loại sinh tố của những thứ quả đó là lựa chọn ưu tiên trong thời gian bạn bị sốt. Hãy chịu khó ăn trái cây vì nó vừa cung cấp thêm vitamin cho cơ thể, vừa giúp giảm sốt, bù đắp lại các chất điện giải đã bị mất.

Ăn nhiều rau xanh

Những thực phẩm quen thuộc như cà chua, rau mồng tơi, rau muống, rau cải, rau dền… chế biến dưới dạng luộc, nấu canh đều có lợi ích hạ nhiệt khi bạn đang bị sốt.

Bệnh Sốt Rét Ác Tính

Sốt rét ác tính là một tình trạng nhiễm Ký sinh trùng sốt rét nặng nề có nhiều biến chứng ở nhiều cơ quan quan trọng như não, gan, thận, phổi…nguy cơ tử vong cao.

Sốt rét ác tính do Plasmodium falciparum gây ra và vectơ truyền bệnh là muỗi Anopheles cái.

DỊCH TỄ HỌC

Nguy cơ xảy ra sốt rét ác tính (SRAT) ở những điều kiện sau:

Người chưa có miễn dịch, chưa bị sốt rét lần nào hoặc mắc dưới 6 lần (tỉ lệ 97,2%)

Dân tộc kinh chiếm đa số hơn dân tộc ít người (tỉ lệ 93,4%)

Người mới vào vùng dịch tễ sốt rét dười 6 tháng dễ bị hơn người sống lâu ở đó (tỉ lệ 81,7%)

Tuổi 16 -30 (tỉ lệ 74%)

Làm rừng rẫy, lao động nặng hoặc đang di chuyển hành quân

Nhà xa trạm xá hoặc phát hiện muộn và điều trị muộn

Đang có dịch sốt rét xảy ra trong vùng chiếm tỉ lệ 51,2%

Các đặc điểm của P. falciparum khi xâm nhập vào hồng cầu

Plasmodium Falciparum có khả năng xâm nhập vào hồng cầu ở mọi lứa tuổi: non, trẻ, già, do đó có thể 40 -50% hồng cầu bị nhiễm Ký sinh trùng. Mật độ Ký sinh trùng càng cao càng có nhiều biến chứng

Khi xâm nhập vào cơ thể, Ký sinh trùng sốt rét có khả năng giải phóng ra độc tố, bản chất độc tố là glycosyl – phosphotidin – inotide – lipide làm hồng cầu dễ vỡ

So với các loại Plasmodium khác thì trong một hồng cầu số lượng các merozoide (tiểu thể hoa cúc) có thể gấp đôi. Cụ thể là có thể lên đến 16 -32 merozoide/1 hồng cầu trong khi đó đối với P.vivax chỉ là 6 – 12 merozoide / 1 hồng cầu

Khi xâm nhập vào bên trong hồng cầu một số Ký sinh trùng sốt rét như P. Falcifarum tạo nên các nốt lồi (knobs )trên bề mặt các hồng cầu. Các nốt này sẽ gắn vào các receptor tương ứng ở bề mặt các liên bào nội mạc của mạch máu sâu tạo nên hiện tượng kết dính hồng cầu bị nhiễm với các tế bào nội mạc mạch máu gây nên tắc mạch nhất là ở não Các protein ở nốt lồi làm chức năng nhận biết các receptor là:

Pf.EMP1 ( Plasmodium Falciparum Erythrocyte Menbranous Protein 1)

Pf.EMP 2 ( Plasmodium Falciparum Erythrocyte Menbranous Protein 2) chúng tôi ( Plasmodium Falciparum Histidin Rich Protein 1)

Pf. HRP 2 ( Plasmodium falciparum Histidin Rich Protein 2)

Hồng cầu bị nhiễm Ký sinh trùng sốt rét (thể tropozoide già ) có thể dính các hồng cầu không mang Ký sinh trùng sốt rét tạo ra hiện tượng hoa hồng dễ gây tắc mạch (không xảy ra với P. vivax).

Các biến đổi chính của hồng cầu khi bị nhiễm Ký sinh trùng sốt rét

Bề mặt hồng cầu xuất hiện các nụ lồi nên không trơn, dễ dính và gây tắc mạch.

Độ đàn hồi màng HC giảm – mất khả năng mềm dẽo nên khó đến mao mạch

Màng hồng cầu tăng tính thấm đối với Natri làm cho hồng cầu dễ vỡ gây tán huyết

Độ bền của màng hồng cầu giảm sút do đó khi thể phân liệt phát triển nhiều dễ vỡ hồng cầu, đặc biệt ở những người thiếu men G6PD.

Biến đổi ở các cơ quan Toàn thân

Sốt: do tác dụng của sắc tố sốt rét và độc tố Ký sinh trùng tiết ra tác động lên trung tâm điều nhiệt và do tác dụng của các lymphokin được tiết ra từ các đại thực bào khi phân hủy mảnh vụn hồng cầu và Ký sinh trùng sốt rét.

Thiếu máu: Vỡ hồng cầu hàng loạt mà cơ chế đã nói ở trên

Hạ đường huyết: do

Tăng nhu cầu sử dụng oxy và glucose của cơ thể . Tăng nhu cầu glucose do phân hủy glucose theo con đường yếm khí. Gan không tạo được glucose từ glycogen và tân tạo glucose từ các chất khác. Việc sử dụng quinine sẽ kích thích đảo langerhan của tụy tiết insulin gây hạ glucose máu. Ăn uống kém.

CIVD: Nghẽn mạch tạo điều kiện cho CIVD ở các trường hợp nặng. Trong các trường hợp này phức hợp V, VII, VIII, X giảm kèm với giảm tiểu cầu và fibrin cũng như giảm prothrombin gây chảy máu nặng.

Các cơ quan: Nói chung là do hiện tượng thiếu oxy do cơ chế bệnh sinh đã mô tả trên.

Não: có 3 thương tổn chính là tắc nghẽn các mao mạch, phù nề và xuất huyết quanh các mao mạch

Nghẽn mạch là hiện tượng phổ biến nhất, nhưng hầu như không để lại di chứng khi khỏi bệnh.

Thiếu oxy não làm cho quá trình chuyển hóa glucose ở não chuyển sang con đường yếm khí sản sinh ra nhiều sản phẩm chuyển hóa dở dang trong đó lactate gia tăng dữ dội trong sốt rét ác tính thể não, phản ánh qua dịch não tủy có sự gia tăng lactate.

Trong các trường hợp nặng sự thiếu oxy lâu sẽ dẫn đến hiện tượng phù nề và xuất huyết quanh các mao mạch, đặc biệt được quan sát ở não của các bệnh nhân tử vong

Thận: Thương tổn ở ống thận do đái Hb. Thiếu oxy gây hoại tử vỏ thận, làm rối loạn chức năng bài xuất nước tiểu và suy thận.

Gan: Tăng hoạt hệ thống võng nội mô để thực bào, phản ánh qua sự tăng sinh các tế bào kuffer và các lympho histocytes ở khoảng cửa. Nghẽn mạch gây thiếu máu, thiếu oxy, các tế bào phình to, hoại tử kèm ứ mật tế bào gan chung quanh các tĩnh mạch trung tâm

Phổi: Do độc tính của Ký sinh trùng cùng các chất lymphokine của đại thực bào giải phóng ra sẽ gây tăng tính thấm mao mạch làm thoát dịch gây phù phổi.

Để phát hiện sớm một sốt rét thường có nguy cơ chuyển sang sốt rét ác tính, phải theo dõi các dấu hiệu ưu tiên:

Sốt liên tục kéo dài koặc nhiều cơn kế tiếp nhau, vã mồ hôi nhiều

Rối loạn tinh thần nhẹ thoáng qua hoặc thỉnh thoảng mất định hướng không gian, thời gian.

Li bì hoặc kích thích vật vã.

Mật độ Ký sinh trùng cao: 1 -10 Ký sinh trùng/ vi trường.

Nôn nhiều hoặc ỉa chảy.

Tổ chức y tế thế giới đưa ra các tiêu chuẩn để chẩn đoán Sốt rét ác tính bao gồm:

Trong Sốt rét ác tính thể não phải hôn mê ít nhất ở giai đoạn 2 (glasgow 7 điểm cho người lớn và 2 điểm cho trẻ em ).

Thiếu máu : Hematocrit < 15 – 20 % hoặc hemoglobin <5 -6 g/l

Suy thận: Số lượng nước tiểu < 400ml/24 giờ, hoặc 12 ml / kg /24 giờ

Phù phổi với dấu hiệu suy hô hấp cấp.

Hạ đường huyết: Glucose máu < 2,2 mmol/ lit ( 0,4 mg%)

Trụy tim mạch.

Chảy máu hay đông máu rải rác nội mạch.

Toan chuyển hóa.

Đái Hb khối lượng lớn

Ngoài ra còn có các tiêu chuẩn phụ, nhưng khi những tiêu chuẩn phụ này đứng riêng rẽ thì không đủ điều kiện để khẳng định Sốt rét ác tính:

Tri giác u ám, chưa hôn mê độ 2.

Sốt rét ác tính thể não

Ở nước ta, sốt rét não chiếm 55% trong số sốt rét ác tính. Gọi sốt rét ác tính thể não khi bệnh nhân hôn mê độ 2 trở lên (glasgow < 7 điểm ) kèm dấu thần kinh nổi bật là co giật.

Thời kỳ khởi phát

Có thể đột ngột sốt cao liên tục hoặc sốt cơn, nhưng nhiều cơn liên tục kế tiếp nhau.

Rối loạn tri giác, rối loạn ý thức, li bì hoặc kích thích cuồng sảng.

Thời kỳ toàn phát

Sốt vẫn tiếp diễn

Các dấu hiệu thần kinh nổi bật với li bì rồi đi vào hôn mê, co giật.

Hôn mê thường ở trạng thái nằm yên, giảm trương lực cơ, nhưng khi có tình trạng tổn thương não giữa sẽ có tình trạng duỗi cứng mất não (tay duỗi, chân duỗi) hoặc co cứng mất não (2 tay co, 2 chân duỗi, lưng uốn cong, mắt ngước nhìn lên) thường nặng.

Co giật: thường xảy ra cơn co giật toàn thân ngắn theo kiểu động kinh hoặc các dấu tổn thương tháp hoặc ngoại tháp nhất thời, nếu hồi phục không để lại di chứng.

Các dấu hiệu toàn thân khác

Rối loạn hô hấp: tăng tiết đờm giãi, rối loạn nhịp thở, èm rối loạn tuần hoàn

Tiết niệu: Tiểu ít, ure creatinin máu có thể tăng.

Gan, lách có thể lớn, vàng da nhẹ.

Cận lâm sàng:

Công thức máu: hồng cầu giảm, có thể thấy hồng cầu non ở máu ngoại vi.

Bạch cầu bình thường có khi tăng nhất là neutrophile

Kéo máu tìm Ký sinh trùng sốt rét

Có rối loạn về men gan: SGOT, SGPT tăng, bilirubin tăng

Tiến triển và tiên lượng

Diễn biến tốt khi

Đang hôn mê bệnh nhân đột ngột la hét vật vã

Các phản xạ (gân xương, da bụng, da bìu, mí mắt) giảm hoặc mất xuất hiện trở lại .

Nhiệt độ hạ dần, mạch và huyết áp ổn định

Bệnh nhân tiểu nhiều hơn

Diễn biến xấu khi

Hôn mê ngày càng xấu hơn và kéo dài trên 3 ngày kèm mất phản xạ nuốt

Co giật nhiều kèm những cơn ngừng thở tím tái

Sốt cao liên tục hoặc hạ thân nhiệt kèm rối loạn tuần hoàn, huyết áp tụt kẹp.

Đái ít hoặc vô niệu

Nôn nhiều, ra dịch đà nâu hoặc máu

Thường tử vong trong tình trạng suy hô hấp hoặc suy tuần hoàn

Sốt rét ác tính thể đái Hb

Thường xuất hiện sau cơn tán huyết đột ngột, giải phóng lượng lớn Hb tự do, nước tiểu có Hb (lúc đầu màu hồng, về sau màu nâu đen) kèm theo thiếu máu cấp và vàng mắt nhẹ.

Sốt rét đái Hb thường xuất hiện ở những bệnh nhân sống ở vùng dịch tễ sốt rét hoặc bị sốt rét nhiều lần để cơ thể có thời gian hình thành miễn dịch. Trong trường hợp này các hồng cầu chứa ký sinh trùng sốt rét biến dạng thay đổi cấu trúc và cơ thể sản xuất ra các kháng thể kháng hồng cầu làm vỡ hàng loạt cac hồng cầu nhiễm và không nhiễm ký sinh trùng sốt rét

Bệnh nhân thiếu G6PD mắc sốt rét có thể đái Hb khi điều trị quinine hoặc primaquine.

Lâm sàng thường biểu hiện:

Khởi phát từ từ với sốt không rõ hoặc đột ngột với sốt cao, nôn mửa nhiều ra nước vàng xanh, nhức đầu và đặc biệt là đau vùng hố hông, tiểu vàng đậm

Toàn phát: Sốt liên tục hoặc thành cơn, thiếu máu lâm sàng nhanh như niêm mạc mắt nhạt màu, da xanh, vàng nhẹ sau đậm dần tương ứng với các đợt tán huyết kèm mệt mỏi, suy nhược; nước tiểu từ vàng sẫm chuyển sang mầu nâu đen đậm như bã cà phê.

Gan, lách to ra

Cảm giác đau ê ẩm vùng lưng kèm nôn ói. Nếu tình trạng tán huyết trầm trọng có thể tụt mạch và huyết áp, thiểu niệu, rồi vô niệu. Thương tử vong trong bệnh cảnh suy thận

Cận lâm sàng

Máu: Hồng cầu giảm, bạch cầu bình thường có khi tăng cao chủ yếu neutrophiles Hct giảm. Có thể không thấy ký sinh trùng sốt rét.

Nước tiểu: Hb niệu (+), không có hồng cầu nguyên vẹn, sắc tố mật (+)

Ure, creatinine máu tăng (nhiều hay ít tùy mức độ tổn thương thận)

Bilirubin toàn phần tăng trong đó chủ yếu là bilirubine gián tiếp.

G6PD có khi giảm hoặc mất hoàn toàn.

Diễn biến và biến chứng

Nếu điều trị đúng, tích cực các đợt tán huyết giảm đi nước tiểu trong dần và lui bệnh

Biến chứng thường gặp và nặng nhất là suy thận cấp do viêm tắc ống thận; tử vong do rối loạn chuyển hóa và ion, tăng kali máu, toan chuyển hóa.

Sốt rét ác tính thể gan mật

Sau thời kỳ khởi phát, bệnh cảnh lâm sàng nặng nề với sốt cao, da mắt vàng đậm, nôn nhiều, nôn ra mật, có khi nôn ra lẫn máu bầm

Gan to, đau tức

Xét nghiệm chức năng gan cho thấy: Bilirubin tăng, tỉ lệ prthrombin giảm, SGPT, SGOT tăng. Các xét nghiệm này xẽ hồi phục khi khỏi bệnh .

Sốt rét ác tính thể phổi

Chủ yếu là dấu hiệu phù phổi với khó thở, tím tái, thở nhanh 40 -50 l/ph, khạc đờm có bọt hồng, nghe phổi đáy phổi có rales ẩm to và nhỏ hạt.

Tiên lượng chung: theo GS. Trịnh kim Ảnh (bệnh viện Chợ Rẫy) đánh giá tiên lượng chung như sau:

Nhóm I: Sốt rét ác tính thể não đơn thuần, tử vong 0 -10% Nhóm II: Thể phủ tạng đơn thuần: tử vong 0 -20 %.

Nhóm III: Sốt rét ác tính thể nãobiến chứng 1 phủ tạng tử vong 0 -20 %.