Top 12 # Xem Nhiều Nhất Triệu Chứng Bệnh Tích Của Bệnh Dịch Tả Lợn Châu Phi Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Mgwbeautypageant.com

Các Triệu Chứng Của Lợn Mắc Bệnh Dịch Tả Châu Phi

Dịch tả lợn châu Phi (Pestis Africana suum- African swine fever) là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở lợn nhà và lợn hoang dại (lợn rừng) do Myxovirrus chứa AND gây ra. Nguyên nhân gây bệnh có đặc tính kháng nguyên hoàn toàn khác với virus gây bệnh dịch tả lợn cổ điển.

Bệnh có nhiều thể biểu hiện: quá cấp, cấp tính, mãn tính và không điển hình. Tỷ lệ ốm và chết rất cao, lên tới 100%. Bệnh đặc trưng bởi các biến đổi viêm xuất huyết tràn lan đường tiêu hóa, hạch lâm ba, thận và thâm tím da phần lớn cơ thể của lợn.

Bệnh được Montgomery nghiên cứu lần đầu tiên ở Kenia- miền Đông châu Phi. Ông phát hiện ra bệnh có nhiều điểm khác với dịch tả lợn cổ điển. Năm 1928, bệnh lây lan mạnh xuống miền Nam châu Phi và giai đoạn 1923 – 1934 đã làm chết hơn 11.000 con lợn. Từ đây, bệnh được mang tên Dịch tả lợn châu Phi.

Năm 1957, bệnh xuất hiện ở Bồ Đào Nha với 443 ổ dịch, làm chết 19.989 con lợn. Năm 1960, đợt dịch thứ hai bùng phát và kéo dài tới tận năm 1963 với 306 ổ dịch và 22.787 lợn ốm và chết.

Từ Bồ Đào Nha, bệnh đã nhanh chóng lây sang Tây Ban Nha, Anh, Ý và một số nước vùng Ban Tích. Năm 1967, bệnh đã thấy ở Cuba và một số nước khác ở Bắc Mỹ.

Ngày nay, bệnh có hai khuynh hướng bùng phát:

+ Bệnh trở thành dịch lưu cữu đối với những nước đã từng có dịch xảy ra.

+ Và nếu bệnh xuất hiện ở nước nào đó lần đầu tiên thì bệnh có tính lây lan mạnh, trở thành dịch đại lưu hành (panzootia).

Do đó, tổ chức dịch tế thế giới đã đưa dịch tả lợn châu Phi vào danh muc bệnh bảng A.

Nguyên nhân gây bệnh dịch tả lợn châu Phi

Nguyên nhân gây bệnh dịch tả lợn châu Phi là một Myxovirrus chứa AND với kích thước rất nhỏ 10 – 30nm, dễ nuôi cấy và phát triển tốt trong môi trường tế bào bạch cầu và tế bào thận lợn. Virus có nhiều typ huyết thanh (serotype) với độc lực rất khác nhau.

Virus có sức sống rất tốt. Trong máu, chúng tồn tại và giữ nguyên độc lực tới 6 năm nếu được bảo quản lạnh, ở nhiệt độ phòng cũng được 4 – 5 tuần. Virus trong lách lợn được bảo quản sâu (-20 độ C đến -70 độ C) tồn tại từ 82 – 105 tuần, nếu ở 37 độ C được 22 ngày, ở 56 độ C chúng sống tới 180 phút. Trong phân ẩm nhão virus tồn tại tới 122 ngày, trong nước tiểu 45 ngày. Tuy nhiên, trong điều kiện axit (pH= 5,3) chúng chỉ tồn tại không quá một phút (99% chết trong 15 – 20 giây). Các chất khử trùng truyền thống như Formol 1,5%- 2%, NaOH 3-4%, nước vôi 20% đều có khả năng tiêu diệt virus cường độc. Với hoạt chất Iodine, Benzalkonium, chúng tôi Virkon.S đều có thể sử dụng được trong công tác khử trùng tiêu độc.

Trong điều kiện tự nhiên chỉ có lợn nhà và lợn rừng mẫn cảm với virus gây bệnh. Lợn rừng có sức đề kháng tốt và qua chọn lọc từ nhiên, chúng ít ốm và chết vì bệnh, nhưng lại là nguồn bệnh nguy hiểm cho lợn nhà.

Lợn nhà, đặc biệt là lợn thả rông rất dễ bị nhiễm bệnh thông qua tiếp xúc trực tiếp hoặc từ phân, nước tiểu của lợn rừng hoặc từ chó, mèo, các vật dụng, kể cả con người bằng cách này hay cách khác đã tiếp xúc với mầm bệnh, mang và phát tán mầm bệnh.

Các động vật thí nghiệm như chuột, thỏ,… không bị bệnh dịch tả lợn châu Phi. Các loại côn trùng như ruồi, muỗi, ký sinh trùng đều là vật mang trùng và lây nhiễm cho lợn nhà.

Bệnh có thể xảy ra quanh năm. Lợn nhà ở mọi lứa tuổi đều dễ dàng bị bệnh.

Ở Việt Nam chưa có bệnh dịch tả lợn châu Phi và cũng chưa có những nghiên cứu về bệnh này. Song trong thời đại mở cửa, giao lưu kinh tế, thương mại, du lịch trên mọi phương tiện giao thông khác nhau khó kiểm soát đang đặt ra cho các nhà quản lý Nhà nước nhiệm vụ cấp bách phòng chống bệnh từ xa.

Cơ chế bệnh sinh

Bằng gây bệnh thực nghiệm, các nhà khoa học đã chứng minh: chỉ 24h sau khi gây nhiễm đã có thể tái phân lập virus ở hạch lâm ba vùng cổ, họng, … 48h ở gan, lách, phổi và sau 3 – 7 ngày có thể phân lập virus ở mọi nơi trong cơ thể lợn. Điều đó nói lên rằng ngay sau khi thâm nhập vào cơ thể lợn, virus đã tự nhân lên rất nhanh chóng, lùa vào đường huyết và gây nhiễm trùng huyết rất nặng- lợn sốt cao tới 42 độ C. Virus di trú đến tất cả các cơ quan, tổ chức của cơ thể. Tại đó chúng gây ra các ổ viêm xuất huyết, hoại tử. Vì thế, khi xét nghiệm, chúng ta thấy các thành mạch máu bị thoái hóa, xung quanh có rất nhiều bạch cầu đơn nhân tập trung. Các tổ chức của hạch lâm ba, gan, lách, thận, phổi thay đổi nhanh chóng, các biểu hiện đều thuộc về viêm xuất huyết, hoại tử.

Điểm nổi bật và đặc trưng của bệnh dịch tả lợn châu Phi là hiện tượng tan rã nhân bạch cầu, giảm lượng bạch cầu tồng số và bạch cầu ái toan đồng thời gây tụ huyết nặng làm tắc nghẽn mạch máu ngoại vi gây thâm tím da phần lớn cơ thể.

Thời gian ủ bệnh thường 5- 10 ngày. Bệnh xuất hiện đột ngột. Lợn sốt cao, sốt tới 42 độ C, kéo dài liên tục trong 4 ngày liền.

Trong thời gian lợn sốt cao, chúng vẫn linh hoạt đi lại, ăn uống bình thường gây cảm giác như lợn hoàn toàn khỏe mạnh, khiến người chăn nuôi không để ý.

Dich tả lợn châu Phi có 4 thể biểu hiện:

Thể này ít gặp và nếu gặp thì chủ yếu ở những vùng, những nước bệnh xuất hiện lần đầu tiên. Lợn đột ngột sốt cao 42 độ C, kéo dài 2-3 ngày tối đa 4 ngày rồi chết.

Đây là thể có đầy đủ các biểu hiện lâm sàng đặc trưng cho bệnh dịch tả lợn châu Phi.

Lợn ốm đột ngột, sốt cao 42 độ C với thể trạng hoàn toàn bình thường. Nhưng khoảng 48h trước khi chết, lợn bệnh mệt mỏi, ủ rũ, lờ đờ, nằm bẹp. Nếu buộc phải bật dậy thì cũng rất khó khăn mất đi dáng đứng tự nhiên. Mông sau yếu, chân sau bị bại khiến cho lợn đánh võng khi bị xua đuổi.

Lợn bỏ ăn hoàn toàn và bắt đầu ho, khó thở, nhịp tim, nhịp thở tăng mạnh. Trên da mềm phần đầu, bụng, bẹp… xuất hiện nhiều nốt xuất huyết và nhanh chóng biến thành màu tím thâm bị hoại tử có dịch rỉ.

Mủ bắt đầu chảy ra từ lỗ mũi, từ mắt (ken mắt).

Thể trạng lợn xấu đi nhanh chóng. Trước khi chết xuất hiện tiêu chảy hoặc táo bón. Điều đáng

chú ý là lợn cảm thấy rất đau khi đi tiểu tiện và đại tiện, trong phân nhiều khi lẫn máu.

Trong suốt quá trình ốm, thân nhiệt tăng và giữ nguyên cho đến lúc gần chết thì hạ xuống dưới mức bình thường. Khi phát hiện ra thân nhiệt dưới 39 độ C thì lợn sẽ chết trong 24h sau đó. Tỷ lệ ốm và chết rất cao, tới 100%.

Thời gian này, nếu xét nghiệm máu, chúng ta thấy rất rõ số lượng bạch cầu, nhất là bạch cầu ái toan bị giảm rõ rệt, chứng tỏ quá trình tái tạo bạch cầu bị phong bế.

Dịch tả lợn châu Phi thể mãn tính thường quan sát thấy ở những nơi bệnh đã thường xuyên nổ ra- dịch lưu cũ. Điều này được giải thích bằng hai khả năng: Một là virus gây bệnh qua nhiều đợt đã bị giảm độc lực, hai là nhờ có kháng thể tich cực do cơ thể lợn bị bệnh tạo ra để chống lại chính virus gây bệnh và qua nhiều đợt tái nhiễm mà lợn đã tự tạo được sức kháng tốt chống lại khả năng gây bệnh của virus cường độc trong thiên nhiên.

Các triệu chứng thể mãn tính cũng giống như thể cấp tính nhưng có mức độ biểu hiện yếu hơn và chủ yếu rối loạn hô hấp và tiêu hóa. Tỷ lệ chết 30- 50%.

Có thể nói những lợn bệnh qua khỏi cơn cấp tính và mãn tính đều mang trùng gây bệnh. Chúng trở thành lợn khỏe mang trùng trong một thời gian rất dài. Cứ như thế, lợn trong các ổ dịch lưu cữu tự tạo cho mình sức đề kháng rất tốt, ít khi mắc bệnh ở thể lâm sàng. Tuy nhiên, những lợn này đôi lúc có các triệu chứng ho hen, sốt ngắt quãng, chảy ken mắt, chảy nước mũi rất giống các biểu hiện của cúm lợn.

Đặc điểm nổi bật là lợn chết đột ngột hoặc ốm trong vài ngày rồi chết. Xác lợn chết do dịch tả lợn châu Phi cứng rất nhanh. Quan sát thấy xuất huyết lấm tấm vùng da mềm giống như dịch tả lợn cổ điển, nhưng khác là mảng da bị xuất huyết dịch nhanh chóng có màu xanh tím và đây chính là đặc điểm bệnh lý của dịch tả lợn châu Phi khác với dịch tả lợn thông thường.

Máu chảy ra từ các lỗ tự nhiên như mũi, miệng, hậu môn giống như bệnh nhiệt than. Khi mổ lồng ngực thấy có rất nhiều dịch thẩm xuất lẫn máu. Phổi bị phù thũng và có vô số xuất huyết điểm trên bề mặt. Tim luôn bị sưng to và bơi trong bao hoạt dịch vàng hoặc vàng đục chứa nhiều sợi fibrin. Cơ tim và vành tim cũng nhìn thấy nhiều điểm xuất huyết li ti giống như bệnh tụ huyết trùng.

Khoang bụng cũng thấy có nhiều dịch thẩm xuất chứa từng mảng, từng cục fibrin. Lách sưng to gấp rưỡi so với bình thường, đầu lách trờ nên tù. Tủy lách có màu đỏ thẫm, mễm nhũn, Dưới vỏ lách cũng nhiều điểm xuất huyết và nhồi huyết.

Gan sưng to gấp hai lần, các mép gan bị tù. Cắt gan ra thấy ướt, lổ đổ (loang lổ) và có rất nhiều điểm xuất huyết. Các thùy gan đỏ thâm và được mô liên kết màu ghi xám bao bọc, đôi khi thấy gồ ghề và có màu vàng do mật ứ đọng.

Túi mật sưng, chứa đầy dịch mật màu xanh thẫm, dịch mật tăng khối lượng riêng. Luôn luôn quan sát thấy viêm xuất huyết dạ dày ruột và tiến tới viêm loét hoại tử. Dưới màng bao (sero) ruột nhìn thấy rõ vô số các điểm xuất huyết.

Niêm mạc ruột non đỏ tấy do viêm xuất huyết với khuynh hướng chuyển sang viêm ruột hoại tử

Ở ruột già cũng giống như dịch tả lợn cổ điển, viêm xuất huyết, hoại tử ruột tạo ra các nốt loét hình xoáy trôn ốc gọi là Button. Ruột thừa luôn phình to hoặc rất to.

Các hạch lâm ba sưng to, đỏ tấy và khi cắt thấy chất chứa đặc sệt hoặc toàn máu.

Khi xem xét biến đổi vi thể, các tác giả đã tổng kết dịch tả lợn châu Phi đặc trưng với viêm xuất huyết tràn lan trong tất cả các cơ quan tổ chức của cơ thể. Đồng thời, quá trình thoái hóa bắt đầu tập trung các tế bào bạch cầu đơn nhân quanh mao mạch của lách, hạch lâm ba, gan, phổi và tim. Ở đó thấy rất rõ quá tình phân hủy nhân tế bào (cariopicnosis, cariorexis, cariolysis) với các mức độ khác nhau.

Chẩn đoán

Dịch tả lợn châu Phi dễ dàng được nhận biết qua các số liệu về dịch tễ, lâm sàng và bệnh tích mổ khám.

Về dịch tễ: đã tiêm phòng chống dịch tả lợn cổ điển, nhưng bệnh vẫn nổ ra. Thể quá cấp ở những nơi bệnh xuất hiện lần đầu, thể cấp và mãn tính ở các nơi bệnh đã xảy ra trước đó.

Về lâm sàng: Sốt đột ngột, sốt rất cao 42-43 độ C và duy trì trong suốt quá trình phát bệnh. Nốt xuất huyết ngoài da nhanh chóng trở nên xanh tím, chảy máu từ các lỗ tự nhiên, lợn rất đau khi đi đại tiểu tiện.

Về bệnh tích: lách, gan sưng rất to, mép tù. Viêm xuất huyết tràn lan ở khắp nơi trong cơ thể. Bệnh tích ở tim rất điển hình xuất huyết cơ tim, vành tim, tim bơi trong bao dịch thẩm xuất có màu vàng đặc hoặc vàng đục với nhiều sợi fibrin.

Chẩn đoán phân biệt với dịch tả lợn cổ điển cần tiến hành như sau:

– Lấy 3 lợn từ 3 – 5 tháng tuổi (đã được tiêm phòng vacxin chống dịch tả lợn cổ điển trước đó 30 – 50 ngày). Tiêm một lúc 0,5ml/kgP kháng huyết thanh chống dịch tả lợn cổ điển và 1ml virus cường độc gây bệnh dịch tả lợn chủng C.

– Lấy 3 lợn cùng lứa tuổi làm đối chứng không tiêm vacxin chống dịch tả lợn cổ điển.

Cả 6 lợn được tiêm 2ml 10% huyễn dịch làm từ lách hoặc hạch lâm ba của lợn ốm hoặc vừa chết nghi bệnh dịch tả lợn châu Phi. Theo dõi liên tục 20 ngày hoặc trên 20 ngày, hàng ngày đo thân nhiệt cho từng lợn thí nghiệm.

Kết quả: Nếu cả 6 con đều chết thì đó là dịch tả lợn châu Phi.

Nếu chỉ 3 con lô đối chứng chết thì đó là dịch tả lợn cổ điển.

Trong phòng thí nghiệm, người ta có thể dùng các phương phát hấp thụ huyết thanh, miễn dịch huỳnh quanh,…để chẩn đoán phân biệt.

Điều trị bệnh dịch tả lợn châu Phi

Ở những nơi bệnh dịch tả lợn châu Phi xuất hiện lần đầu thì không nên điều trị mà phải nhanh chóng tiêu hủy, khử trùng tiêu độc tận gốc.

Ở những vùng mà bệnh dịch tả lợn châu Phi luôn xuất hiện dịch cục bộ thì phải tiêm phòng ngay và loại bỏ những lợn có thân nhiệt cao.

Phòng bệnh dịch tả lợn châu Phi

Những vùng chưa có bệnh, các nhà quản lý phải áp dụng nghiêm khắc các biện pháp phòng bệnh từ xa thông qua kiểm dịch trước, trong và sau mỗi lần xuất, nhập, di chuyển lợn và sản phẩm lợn qua biên giới, qua các cửa khẩu.

Những vũng đã xảy ra dịch và dịch trở thành lưu cữu, dịch địa phương thì phải dùng các biện pháp làm sạch bệnh. Trong đó, hàng năm phải tiêm phòng đại trà hai lần vacxin nhược độc đã qua 114 đời cấy chuyển qua thỏ hoặc tế bào thận lợn. Sơ đồ tiêm phòng được khuyến cáo áp dụng như với dịch tả cổ điển.

BiotechViet tổng hợp

Bệnh Dịch Tả Lợn Châu Phi: Cách Nhận Biết Triệu Chứng Lâm Sàng Và Bệnh Tích Điển Hình

Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP) là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút gây ra, lây lan rất nhanh. Theo Cục Thú y, lợn nhiễm bệnh DTLCP có một số triệu chứng lâm sàng và bệnh tích như sau:

Lợn nhiễm bệnh DTLCP có nhiều triệu chứng, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh.

Thể quá cấp tính là do vi rút có độc lực cao, lợn chết nhanh, không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng hoặc lợn nằm và sốt cao trước khi chết.

Thể cấp tính là do vi rút có độc lực cao gây ra, lợn sốt cao (40,5-42 0 C). Lợn không ăn, lười vận động, ủ rũ, nằm chồng đống, thích nằm chỗ có bóng râm hoặc gần nước. Lợn có biểu hiện đau vùng bụng, lưng cong, di chuyển bất thường, một số vùng da trắng chuyển sang màu đỏ, đặc biệt là ở vành tai, đuôi, cẳng chân, da phần dưới vùng ngực và vùng bụng, có thể có màu sẫm xanh tím. Trong 1-2 ngày trước khi con vật chết, có triệu trứng thần kinh, di chuyển không vững, nhịp tim nhanh, thở gấp, khó thở hoặc có bọt lẫn máu ở mũi, viêm mắt, nôn mửa, tiêu chảy đôi khi lẫn máu hoặc có thể táo bón, phân cứng đóng viên có kích thước nhỏ, có chất nhầy và máu. Lợn mang thai có thể sảy thai ở mọi giai đoạn. Lợn khỏi bệnh hoặc nhiễm vi rút có thể mạn tính thường không có triệu trứng nhưng sẽ là vật chủ mang vi rút DTLCP lâu dài.

Lợn không ăn, lười vận động, ủ rũ, nằm chồng đống, đau vùng bụng, lưng cong, di chuyển bất thường

Thể á cấp tính gây ra bởi vi rút có độc tính trung bình. Lợn biểu hiện triệu trứng không nghiêm trọng. Lợn sốt nhẹ hoặc sốt lúc tăng lúc giảm, giảm ăn, sụt cân, ủ rũ, viêm toàn bộ phổi nên khó thở, ho có đờm, phổi có thể bội nhiễm vi khuẩn kế phát, viêm khớp, vận động khó khăn, lợn mang thai sẽ sẩy thai. Lợn có thể khỏi hoặc bị bệnh mạn tính.

Thể mạn tính gây ra bởi vi rút có độc tính trung bình hoặc thấp. Lợn có nhiều triệu chứng khác nhau, chẳng hạn như giảm cân, sốt không ổn định, có triệu chứng hô hấp, hoại tử da hoặc viêm loét da mạn tính, viêm khớp, viêm cơ tim, viêm phổi dính sườn, viêm các khớp khác nhau trong giai đoạn phát triển. tỷ lệ chất thấp, lợn khỏi bệnh sau khi nhiễm vi rút gây nên bệnh sẽ trở thành dạng mạn tính.

Lợn mắc bệnh DTLCP có biểu hiện các triệu chứng không khác biệt so với triệu chứng của bệnh Dịch tả lợn cổ điển. Do đó, việc chuẩn đoán dựa trên triệu chứng lâm sàng thường khó khăn, khó phân biệt với bệnh khác. Vì vậy, cần lấy mẫu gửi phòng thí nghiệm của cơ quan thú y có thẩm quyền để xét nghiệm phát hiện vi rút DTLCP.

Thể cấp tính: Xuất huyết nhiều ở các hạch Lympho ở dạ dày, gan và thận. Thận có xuất huyết điểm, lá lách to có nhồi huyết. Da có màu tối và phù nề, da vùng bụng và chân cho xuất huyết. Có nhiều nước xung quanh tim và trong xoang bụng, có các điểm xuất huyết trên thanh quản, bàng quang và bề mặt các cơ quan bên trong; phù nề trong cấu trúc hạch lâm ba của đại tràng và phần tiếp giáp với túi mật, túi mật sung.

Thể mạn tính: Có thể gặp sơ cứng phổi hoặc có các ổ hoại thử hạch, hạch phổi sưng, viêm dính màng phổi.

Hiện nay, chưa có vắc xin phòng bệnh Dịch tả lợn Châu Phi cho lợn. Vi rút gây bệnh Dịch tả lợn Châu Phi có sức đề kháng cao với môi trường. Ở nhiệt độ phòng, vi rút trong huyết thanh lợn sống được 18 tháng, vi rút trong máu giữ trong tủ lạnh có thể sống đến 6 năm. Ở nhiệt độ càng lạnh thì vi rút càng tồn tại lâu.

Để phòng, chống dịch bệnh lây lan, theo khuyến cáo của tổ chức Thú y thế giới (OIE) và Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), khi đàn lợn có kết quả xét nghiệm dương tính với bệnh DTLCP phải tiêu hủy bằng phương pháp chôn sâu 3 – 4m, bổ sung hóa chất sát trùng, vôi củ, vôi bột./.

Dịch Tả Lợn Châu Phi Ảnh Hưởng Như Thế Nào Tới Sức Khỏe?

Dịch tả lợn châu Phi hiện đang lây lan nhanh và chưa có hiện tượng thuyên giảm. Đây là loại bệnh dịch mang đến tổn thất nặng nề cho ngành chăn nuôi Việt Nam nói chung và thế giới nói riêng. Đồng thời, nó cũng ảnh hưởng không tốt tới người sử dụng.

Dịch tả lợn châu Phi là gì?

Đây là một loại bệnh truyền nhễm rất nguy hiểm do virus gây ra. Loại bệnh này có thể xảy ra ở tất cả các loại lợn (cả lợn nhà và lợn rừng). Đặc biệt, những con hợn được nuôi theo phương thức thả rông càng dễ mắc bệnh hơn (do tiếp xúc phân và nước tiểu).

Thực chất virus dịch tả châu Phi là virus gây sốt xuất huyết ở lợn khiến lợn bị xuất huyết tràn lan đường tiêu hóa. Xuất huyết trở nên rõ ràng ở tai và bụng. Khi bị lây dịch các nhóm lợn bị nhiễm bệnh nằm co ro cùng nhau run rẩy, thở bất thường và đôi khi ho. Nếu bị buộc phải đứng, chúng có vẻ đứng không được ổn định. Trong vài ngày bị nhiễm trùng, lợn rơi vào trạng thái hôn mê và sau đó chết. Dịch tả châu Phi lây lan rất nhanh và có tỉ lệ tử vong lên đến 100%.

Đường lây truyền

Vi rút dịch tả heo Châu Phi lây nhiễm chủ yếu qua đường hô hấp và tiêu hóa ở lợn. Nó lan truyền thông qua sự tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với các vật thể nhiễm virus như: Chuồng trại, các phương tiện chuyên trở, vận truyển, những dụng cụ, đồ dùng, quần áo nhiễm vi rút và thức ăn thừa chứa thịt lợn nhiễm bệnh.

Triệu chứng của bệnh dịch tả lợn châu Phi

Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi được biểu hiện qua 3 thể chính:

Thể quá cấp tính: Lợn không biểu hiện các triệu chứng lâm sáng. Hoặc lợn sẽ chỉ nằm và sốt cao trước khi chết. Ở thể này lợn chết rất nhanh.

Thể cấp tính: Lợn sốt cao (40,5- 42°C). Trong 2-3 ngày đầu tiên lợn không ăn, lười vận động, ủ rũ, nằm một chỗ. Đặc biết chỉ nằm chỗ có bóng râm hoặc gần nước. Lợn có biểu hiện như lưng cong, di chuyển bất thường. Một số vùng da trắng xuát hiện các mảng đỏ. Hoặc ở các cùng vành tai, đuối, cẳng chân và đa phần dưới vùng ngực, bụng chuyển sang màu xanh tím. Trong 1-2 ngày trước khi con vật chết, có triệu chứng thần kinh, di chuyển không vững, thở gấp, khó thở hoặc có bọt lẫn máu ở mũi, viêm mắt, nôn mửa, tiêu chảy đôi khi lẫn máu hoặc có thể táo bón, phấn có chất nhầy và máu. Lợn sẽ chết trong vòng 6-13 ngày hoặc 20 ngày.

Thể á cấp tính: Lợn biểu hiện triệu chứng sốt nhẹ; hoặc sốt lúc cao lúc thấp. Ăn kém, sụt cân, ủ rũ, đi lại khó khăn, lợn mang thai sẽ sẩy thai. Lợn chết trong vòng 15-45 ngày, tỷ lệ chết khoảng 30-70 %. Lợn sau khi khỏi sẽ bị bệnh mãn tính.

Dịch tả lợn châu Phi có lây sang người?

Do khả năng sinh tồn của loại virus gây bệnh này rất cao. Tuy nhiên bệnh dịch tả heo Châu Phi không lây lan sang người, không có mối đe dọa trực tiếp đến sức khỏe con người. Nhưng lợn mắc bệnh dịch tả Châu Phi có nguy cơ cao mắc các bệnh khác như tai xanh, cúm, thương hàn… Đây là những bệnh có thể gây nguy hiểm trực tiếp cho con người. Nó có thể gây rối loạn tiêu hóa, khi người ăn phải tiết canh lợn, thịt lợn bệnh chưa được nấu chín.

Đặc biệt, khi lợn bị bệnh tai xanh, những người có vết thương hở có thể bị vi khuẩn xâm nhập và gây bệnh. Khi bị nhiễm khuẩn người bệnh có biểu hiện sốt cao, đau đầu, buồn nôn, xuất huyết một số nơi trên cơ thể. Nguy hiểm hơn còn có thể bị viêm màng não.

Phòng chống

Hiện nay chưa có vắc xin phòng và thuốc điều trị được bệnh Dịch tả châu Phi. Chính vì vậy, người dân cần cẩn thận khi khu vực hoặc xung quanh khu vực có dấu hiệu của bệnh dịch:

Rửa thực phẩm thật kỹ với nước máy hoặc nước lọc trước khi đem đi chế biến.

Người trực tiếp sơ chế và chế biến phải rửa tay thật kỹ bằng xà phòng.

Ăn uống lành mạnh: Nên ăn chín uống sôi, đảm bảo an toàn khi sử dụng thực phẩm.

Khi chế biến thực phẩm phải nấu kỹ với nhiệt độ sôi. Đảm bảo thịt và các sản phẩm từ thịt lợn phải được chín hoàn toàn.

Khi bảo quản nguyên liệu nên rửa kỹ và sử dụng hộp có nắp đậy kín (hoặc các túi hút chân không). Sau đó để trong ngăn đông của tủ lạnh.

Phát Hiện Thêm Ổ Dịch Tả Lợn Châu Phi Tại Tp Hồ Chí Minh

18:42 04/07/2019

Chiều 4/7, Chi cục Chăn nuôi và Thú y TP Hồ Chí Minh cho biết, kết quả mẫu xét nghiệm số lợn có triệu chứng điển hình của dịch tả lợn châu Phi tại 3 hộ chăn nuôi thuộc địa bàn phường Tân Tạo, quận Bình Tân là dương tính với virus bệnh dịch tả lợn châu Phi.

Trước đó, ngày 3/7, sau khi nhận thông tin một số con lợn ở 3 hộ chăn nuôi trên địa bàn phường Tân Tạo, quận Bình Tân có triệu chứng điển hình của bệnh dịch tả lợn châu Phi, Chi cục Chăn nuôi và Thú y TP Hồ Chí Minh đã tiến hành lấy mẫu gửi Chi cục Thú y vùng 6 để xét nghiệm xác định nguyên nhân. Đồng thời, tiến hành tiêu hủy 122 con lợn nghi nhiễm bệnh dịch tả lợn châu Phi để ngăn chặn việc lây lan.

TP Hồ Chí Minh phát hiện ổ dịch tả lợn châu Phi đầu tiên vào ngày 10/6 tại phường Phú Hữu, Quận 9. Đến ngày 3/7, trên địa bàn TP Hồ Chí Minh có 13 hộ chăn nuôi có lợn nhiễm dịch tả lợn châu Phi ở các huyện Bình Chánh, huyện Củ Chi, quận 9 và quận 12 với tổng số đàn lợn bị tiêu hủy là 2.055 con.

Ông Huỳnh Tấn Phát, Phó Chi cục trưởng, Chi cục Chăn nuôi và Thú y TP Hồ Chí Minh cho biết, đến thời điểm hiện tại, tất cả trường hợp nhiễm dịch tả lợn châu Phi trên địa bàn TP Hồ Chí Minh đều là các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, sử dụng thức ăn thừa để nuôi lợn.

Trước tình hình trên, Chi cục Chăn nuôi và Thú y TP Hồ Chí Minh đã tham mưu cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Hồ Chí Minh tuyên truyền, vận động trên 270 hộ chăn nuôi sử dụng thức ăn thừa từ các quán ăn, nhà hàng ngừng sử dụng thức ăn thừa trong thời điểm đang xảy ra dịch bệnh để phòng tránh. Tuy nhiên, do thói quen chăn nuôi nhỏ lẻ cộng với điều kiện chuồng trại tạm bợ, vệ sinh kém nên khả năng xuất hiện các ổ dịch rải rác vẫn rất cao.

Theo ông Huỳnh Tấn Phát, trước tình hình dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp, Chi cục Chăn nuôi và Thú y thành phố sẽ họp các cơ sở chăn nuôi giống, hộ chăn nuôi quy mô lớn để rà soát lại các biện pháp phòng chống dịch cũng như tuyên truyền khuyến khích hộ chăn nuôi tích cực chăm sóc lợn và thực hiện các biện pháp an toàn sinh học. Bởi hiện nay khi dịch bệnh lan rộng ở hầu hết các địa phương trên cả nước, ở nhiều địa phương thương lái đã ép giá mua lợn hơi xuống còn khoảng 25.000 đồng/kg, bằng với giá hỗ trợ của Chính phủ khiến người chăn nuôi có tâm lý bỏ mặc hoặc bán tháo đàn lợn chưa đến tuổi xuất chuồng. Điều này không chỉ gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi mà còn ảnh hưởng xấu đến thị trường tiêu thụ thịt lợn trong và sau thời gian xảy ra dịch bệnh.

(Theo Tin Tức)