Top 4 # Xem Nhiều Nhất Triệu Chứng Y Học Cổ Truyền Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Mgwbeautypageant.com

Y Học Cổ Truyền Việt Nam

Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

Là một bệnh rối loạn chuyển hóa gây tăng lượng acid uric trong huyết thanh. Triệu chứng lâm sàng chủ yếu là khớp viêm tái phát nhiều lần, dị dạng khớp, nổi u cục dưới đa và quanh khớp, bệnh tiến triển gây sỏi thận do acid uric, bệnh thận do gút. Thường gặp ở nam giới tuổi trung niên.

Xuất hiện đầu tiên trong sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’.

Đông y còn gọi là ‘Lịch Tiết Phong, ‘Bạch Hổ Phong’, ‘Bạch Hổ Lịch Tiết’.

Nguyên nhân bệnh lý theo y học cổ truyền

Goutt là một bệnh tăng acid uric huyết thanh với những biểu hiện đau khớp cấp. Lượng acid uric huyết tăng do tăng sản xuất lượng acid uric hoặc do thận đào thải kém hoặc do cả hai. Theo YHCT, thống phong là do ngoại tà xâm nhập cơ thể gây tắc nghẽn kinh lạc, khí huyết ứ trệ tại khớp gây đau co duỗi khó khăn. Bắt đầu bệnh còn ở cơ biểu kinh lạc, bệnh lâu, tà khí vào gân xương gây tổn thương tạng phủ, chức năng của khí huyết tân dịch rối loạn, tân dịch ứ trệ thành đàm, khí huyết ngưng trệ thành ứ, đàm ứ kết mà hình thành các u cục tôphi quanh khớp, dưới da. Bệnh tiến triển lâu ngày gây tổn thương đến can thận, làm biến dạng các khớp và tái phát nhiều lần.

Y văn cổ không có ghi chứng gút nhưng có chứng “thống phong” là chỉ chứng thống tý lâu ngày khó khỏi. Cho nên bệnh thống phong có thể qui thuộc phạm trù chứng tý trong đông y.

Triệu chứng lâm sàng:

Bệnh có 2 thể lâm sàng.

l- Cấp tính: Cơn đau sưng tấy dữ dội đột ngột của khớp bàn chân, ngón cái, thường và0 ban đêm (cũng có thể ở các vị trí khác: ngón chân khác, cổ chân, gối…) khớp đỏ xẫm, ấn đau nhiều, khớp hoạt động hạn chế, kéo dài 2, 3 ngày hoặc 5, 6 ngày rồi khỏi không để lại di chứng nhưng rất dễ tái phát.

2. Mạn tính: Thường do bệnh cấp tính chuyển thành, biểu hiện viêm nhiều khớp mạn tính (khớp nhỏ, vừa và đối xứng) tái phát nhiều, thời gian ổn định rút ngắn, khớp bệnh đau nhiều kéo dài, tại khớp có thể sưng nóng đỏ không rõ nhưng thường cớ sốt, khớp dị dạng, co duỗi khó khăn, xuất hiện nốt u cục quanh khớp, dưới da, vành tai (hạt tôphi) mềm, không đau, trong chứa một chất trắng như phấn. Bệnh tiến triển lâu ngày gây tổn thương thận (viêm thận kẽ, sạn tiết niệu, tiểu máu, suy thận cấp, mạn).

Chẩn đoán và phân biệt:

* Chẩn đoán chủ yếu dựa vào:

– Triệu chứng lâm sàng (như trên) chú ý hạt Tôphi, sạn thận gút, khớp gút to, thường chủ yếu là xương bàn chân tay sưng đau không đối xứng.

Acid uric huyết tăng rõ, cao hơn 7mg%.

– Tiền sử bệnh (cách tiến triển các cơn trước).

– Tiền sử gia đình.

– Cần phân biệt với:

+ Viêm khớp dạng thấp (không có acid uric cao, khớp sưng đối xứng…)

+ Tăng acid uric huyết đơn thuần (khớp bình thường), tăng acid uric thứ phát (suy thận…).

Biện Chứng Luận Trị

Biện chứng luận trị cần chú ý đến giai đoạn phát triển của bệnh. đối với thể cấp tính chủ yếu dùng phép thanh nhiệt thông lạc khu phong trừ thấp, đối với thể mạn tính thường kèm theo đàm thấp, ứ huyết, hàn ngưng, nên tùy chứng mà dùng các phép hóa đàm, trừ thấp, hoạt huyết thông lạc, ôn kinh, tán hàn. Đồng thời chú ý đến mức độ hư tổn của âm dương, khí huyết, can thận mà bồi bổ thích hợp.

Đối với thể cấp tính: Biểu hiện chính là thể phong thấp nhiệt; đột ngột khớp ngón cái (thường gặp nhưng cũng có thể các khớp nhỏ khác) sưng nóng đỏ đau, không đụng vào được, kèm theo sốt, đau đầu, sợ lạnh hoặc bứt rứt, khát nước, miệng khô, tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn, mạch Sác.

Điều trị: Thanh nhiệt, thông lạc, khu phong, trừ thấp. Dùng bài: Bạch Hổ Gia Quế Chi Thang Gia giảm: Thạch cao 40 – 60g (sắc trước), Tri mẫu 12g, Quế chi 4 – 6g, Bạch thược, Xích thược đều 12g, Dây Kim ngân 20 – 30g, Phòng kỷ 10g, Mộc thông, Hải đồng bì đều 10g, Cam thảo 5 – 10g, sắc uống ngày l thang, trong thời gian sưng đỏ nóng sốt.

Trường hợp thấp nhiệt nặng (Sưng tấy đau nhiều gia thêm dây Kim ngân 40 – 50g, Thổ phục linh,Ýù dĩ (tăng trừ thấp) hoặc gia thuốc hoạt huyết như Toàn Đương qui, Đan sâm, Trạch lan, Đào nhân, Hồng hoa, Tằm sa để hóa ứ chỉ thống, trường hợp có biểu chứng thêm thêm Quế chi, Độc hoạt, Tế tân để giải biểu, tán hàn chỉ thống.

+ Đối với thể mạn tính: nhiều khớp sưng to đau kéo dài, co duỗi khó, tại khớp không đỏ nóng rõ nhưng đau nhiều, dị dạng kèm theo tê dại, da tím sạm đen, chườm nóng dễ chịu, mạch Trầm Huyền hoặc Khẩn, lưỡi nhợt, rêu trắng là triệu chứng của hàn thấp ứ trệ.

Điều trị: Khu hàn, thông lạc, trừ thấp, chỉ thống. Dùng Chế Ô đầu, Tế tân đều 4 – 5g (sắc trước), Toàn Đương qui 12g, Xích thược 12g, Uy linh tiên 10g, Thổ phục linh 16g, Tỳ giải 12g, Ý dĩ nhân 20g, Mộc thông 10g, Quế chi 4 – 6g, sắc uống.

Trường hợp sưng đau nhiều khớp cứng, mạch Hoãn Hoạt, rêu lưỡi trắng bẩn dày là triệu chứng đàm trọc ứ trệ, thêm chích Cương tàm, Xuyên sơn giáp, Tạo thêmùc thích, Hy thiêm thảo, Hải đồng bì, để tăng tác dụng hoạt lạc, trừ đàm. Đau nhiều do huyết ứ (đau như dao đâm, mạch sáp, lưỡi tím bầm) thêm Ngô công, Toàn yết, sao Diên hồ sách để hoạt huyết chỉ thống.

Trường hợp thận dương hư (liệt dương, đau mỏi lưng gối, chân tay lạnh, sợ lạnh, lưỡi bệu, mạch Trầm, Hoãn vô lực thêm Bổ cốt chỉ, Nhục thung dung, Cốt toái bổ để bổ thận kiện cốt định thống, có triệu chứng khí huyết hư thêm Hoàng kỳ, Đương qui, Nhân sâm, Bạch truật…

Trên lâm sàng thường gặp:

+ Thấp Nhiệt Uẩn Kết: Khớp sưng đỏ, đau, nóng. Phiền táo, khát, nước tiểu vàng, đỏ, đầu đau, sốt, sợ lạnh, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch Nhu, Sác.

Điều trị: Tuyên thanh, lợi thấp nhiệt, thông lạc, chỉ thống. Dùng bài Niêm Thống Thang gia giảm: Đương quy, Bạch truật, Đảng sâm, Hoàng cầm đều 10g, Thương truật, Trư linh, Trạch tả, Phòng kỷ đều 12g, Long đởm thảo (sao), Khổ sâm, Tri mẫu, Thăng ma đều 6g, Ý dĩ nhân (sống), Xích tiểu đậu đều 15g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Chẩn Liệu Học).

+ Đờm Ngưng Trở Lạc: do nhiều đờm ẩm gây nên, các khớp nặng, cử động khó khăn, khớp mềm hoặc cứng, có khi sốt cao, đầu đau, lo sợ, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế, Sáp.

Điều trị: Hòa doanh, khứ ứ, hóa đờm, thông lạc. Dùng bài Đào Hồng Tứ Vật Thang gia giảm: Đương quy, Xích thược, Đào nhân, Mộc qua đều 10g, Hồng hoa, Uy linh tiên, Xuyên khung đều 6g, Dã xích đậu, Triết bối mẫu đều 12g, Ty qua lạc, Tạo giác thích, Giáp châu đều 4,5g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Chẩn Liệu Học).

+ Phong Thấp Hàn, Huyết Ứ: Bệnh phát cấp, khớp đau cứng một chỗ, lạnh thì đau nhiều, gặp ấm, nóng dễ chịu hơn, có thể bị biến dạng khớp và cứng khớp, khó cử động. Dù sưng nhưng không thấy nóng, đỏ, lưỡi trắng mỏng, mạch Hoạt, Trầm, Huyền hoặc Nhu, Hoãn.

Điều trị: khu phong, trừ thấp, ôn kinh hoạt lạc. Dùng bài Kê Huyết Phụ Tử Niêm Thống Thang: Kê huyết đằng, Nhẫn đông đằng đều 50g, Thương truật, Kinh giới huệ

Một Số BÀI THUỐC KINH NGHIỆM

+ Địa Hoàng Du Linh Phương (Hồng Dụng, bệnh viện Hồng Thập Tự Hàng Chău tỉnh Triết Giang): Sinh địa, Hoàng kỳ, Đơn sâm, Ích mẫu thảo, Tang ký sinh đều 15g, Sơn thù, Phục linh, Trạch tả đều 10g, Tần giao 20g, sắc uống.

Thận dương hư, chân lạnh, lưng gối lạnh đau thêm Tiên linh tỳ, Tiên mao đều 10g, tỳ hư bụng đầy, tiêu lỏng thêm Đảng sâm, bạch truật đều 10g, miệng khô tiểu vàng mạch Sác thêm Hoàng cầm, Hoàng bá hoặc Sơn chi đều 10g, can dương thịnh đau đầu, váng đầu thêm Câu đằng, Cúc hoa, Thiên ma đều 10g.

Kết quả lâm sàng: Trị 6 ca, tốt 2 ca (huyết áp hạ xuống bình thường, creatine xuống l,8mg%, acid uric huyết dưới 6mg% hết triệu chứng lâm sàng) tiến bộ 4 ca (triệu chứng giảm, huyết áp hạ dưới 150/90mmHg, acid dưới 7mg%) (Hiện Đại Nội Khoa Học).

+ Thống Phong Phương (Trương Huệ Thần).

1-Thương truật 9g, Hoàng bá, Ngưu tất, Hải đồng bì, Khương hoàng, Uy linh tiên đều 12g, Hy thiêm thảo 15g, Mao đông thanh 30g, Hắc lão hổ, Nhặp địa kim ngưu đều 30g, ngày l thang sắc uống. Trắc bá diệp, Đại hoàng đều 30g, Hoàng bá, Bạc hà, Trạch lan đều 15g tán bột cho mật và nước vừa đủ thành hồ đắp ngoài.

2- Quế chi, Xuyên khung đều 10g, Khương hoạt, Tang chi, Tần giao, Thương truật đều 12g, Ngưu tất, Đơn sâm, Phòng kỷ đều 15g, Cam thảo 6g sắc nước uống. Đại hoàng, Hoa hòe, Tích tuyết thảo đều 30g sắc nước thụt đại tràng.

Bài (1) có tác dụng thanh nhiệt trừ thấp trị chứng thống phong cấp thể thấp nhiệt.

Bài (2) có tác dụng tán hàn trừ thấp tý, thông lạc, chỉ thống trị chứng thống phong cấp thể hàn thấp.

– Kết quả lâm sàng: Trị 12 ca, 11 ca khớp sưng đều có giảm mức độ khác nhau, có 4 ca hết đau, giảm đau rõ, 5 ca, có giảm đau 2 ca. Đau giảm trong thời gian từ 7 – 40 ngày, bình quân 25 ngày (Hiện Đại Nội Khoa Học).

+ Xuyên sơn giáp (đau bên trái dùng đắp bên phải và ngược lại) sao vàng tán bột, Trạch lan 9g, sắc với rượu uống.

Bài thuốc dùng cho chứng Tiễn phong thống (tục gọi là Quỷ tiễn đả) hoặc đau đầu, gáy, vai, lưng, chân tay gân xương đau (Hiện Đại Nội Khoa Học).

+ Diên hồ sách, Nhục quế, Ngũ linh chi, Đương qui, Bạch chỉ, Phòng phong đều 3g. sắc uống (thêm Mộc hương 3g mài uống càng tốt) (Hiện Đại Nội Khoa Học).

+ Sinh địa 90g, Ngọc trúc 15g, Tế tân 3g, Độc hoạt, Khương hoạt, Chế xuyên ô, Thương truật, Đương qui, Bạch hoa xà đều 9g. Sắc uống. Dùng cho chứng thống phong sau khi sinh rất có hiệu quả.

+ Hoàng kỳ 12g, Đương qui, Cát căn đều 9g, Ma hoàng 3g, Bạch thược, chích thảo, Quế chi đều 6g, Sinh khương 1 lát, Táo 1 quả. Sác uống trị vai lưng đau.

+ Sung úy tử, Hà thủ ô đều 15g, đều 24g. Sắc nước lọc bỏ bã, dùng nước luộc trứng gà ăn. Dùng trị cánh tay đau có hiệu quả.

+ Bích hổ (Thằn lằn), ấu trùng Bọ dừa (bao giấy nướng, tán bột) mỗi thứ 3 con, Địa long tán bột 5 con, Mộc hương 15g, Nhũ hương 7,5g, Xạ hương 3g, Long não 15g. Tất cả tán bột chế với rượu, hồ thành hoàn bằng hạt đậuã đen to. Mỗi ngày uống lúc đói với rượu 30 viên (hoàn). (Thuốc trị chứng lịch tiết thống phong đau dữ dội điều trị nhiều thuốc không khỏi) (Hiện Đại Nội Khoa Học).

+ Xa tiền tử 15g, Tần giao, Uy linh tiên, Xuyên ngưu tất, Nhẫn đông đằng, Địa long đều 12g, Sơn từ cô, Hoàng bá đều 10g, Cam thảo 6g. Sắc nước uống. Đau nhiều thêm Xuyên ô 9g, Huyền hồ 12g, nhiệt thịnh thêm Dã cúc hoa 15g, Tử hoa địa đinh 30g, hoạt huyết thêm Đơn sâm 15g, lợi tiểu thêm Hoạt thạch 15g (Hiện Đại Nội Khoa Học).

Châm cứu Trị Chứng Gout

+ Huyệt chính: Thận du, Khí hải du, Bàng quang du, Quan nguyên, Tam âm giao. Phối với huyệt vùng đau, lân cận (A thị huyệt…).

Bệnh Án Thống Phong

Một chủ tịch công ty 57 tuổi, đến bệnh viện ngày 12 tháng 10 năm 1966, ngón cái bên chân trái sưng to gấp 2 lần bình thường, rất đau và mầu tím sẫm. Tháng 8 hai năm về trước xuất hiện tình trạng này, năm sau bệnh nhân không có khả năng đi lại được, đã sử dụng Colchicin nhưng không hiệu quả. Ngày 9 tháng 9 bệnh nhân đã đến khoa phẫu thuật chỉnh hình của phòng khám của trường đại học Y khoa Tokyo, ở đó bệnh nhân được điều trị trong 1 tháng nhưng không kết quả gì ngoại trừ hàm lượng acid uric trong máu giảm từ 9 xuống còn 6,5mg. Năm ngày sau bệnh nhân đến bệnh viện của chúng tôi, vì đau tái phát ở chân bên trái, vai trở nên cứng, đau dầu, nặng đầu, ù tai bên phải, đau thắt lưng, khát nước, thích nước, sợ lạnh, thèm gia vị và muối nhưng không thích thực phẩm ngọt, táo bón, tiểu tiện 8 đến 10 lần trong ngày và 1 lần ban đêm, nuôi dưỡng và sắc mặt tốt, mạch Huyền, bụng khỏe, ngoài ra rêu lưỡi trắng. Phúc chẩn ngực đau. Bệnh nhân được dùng bài Đại Sài Hồ Thang thêm Đại hoàng (vì có táo bón) và Thạch cao (vì có khát). Ngày 27 tháng 10 năm 1966, đau ngực đã dịu đi, phân mềm, đại tiện ngày 1 lần, tiểu tiện 4 hoặc 5 lần một ngày và 1 lần ban đêm, vì giảm lượng nước đưa vào. Ngày 2 tháng 11 chứng đau vai đã dịu đi nhưng chân vẫn còn đau. Tôi chuyển sang dùng bài Đương Quy Niêm Thống Thang. Ngày 12 tháng 11 bệnh nhân vẫn còn đau, tiếp tục dùng bài thuốc trên cùng với Bát Vị Hoàn trong 10 ngày nữa, nhưng không kết quả. Do vậy dùng bài Đại Sài Hồ Thang thêm Ma hoàng 15 ngày vì nó có tác dụng giảm đau. Ngày 12 tháng 12 chân bệnh nhân vẫn còn đau, khám lại toàn diện thấy đau ngực, phản ứng mạnh và đau khi ấn vào vùng bụng dưới. Do vậy tôi cho là huyết ứ và bệnh nhân được dùng bài Đại Sài Hồ Thang cùng với Đào Hạch Thừa Khí Thang thêm Hồng hoa, Ý dĩ. Hồng hoa làm tan huyết ứ và cải thiện tuần hoàn trong khi Ý dĩ làm giảm đau, dần dần hơn 1 năm, các chứng đau đã biến mất. Bệnh nhân dùng Đào Hạch Thừa Khí Thang đơn thuần trong 2 tháng nữa, lúc bệnh nhân trở lại bệnh viện ngày 20 tháng 3, acid uric đo được 3mg, tôi cho bệnh nhân dùng bài thuốc trên trong 2 tháng nữa, tất cả các triệu chứng đã biến mất.

2- Một chủ tịch công ty khác 45 tuổi bị thống phong ở gót chân, acid uric đo được 30mg, cân nặng 83kg, đến bệnh viện ngày 12 tháng 7 năm 1967, tôi đã cho dùng bài Đại Sài Hồ Thang thêm Hồng hoa và Ý dĩ trong 20 ngày. Bệnh nhân trở lại bệnh viện ngày 7 tháng 8, tình trạng đã được cải thiện; lượng acid uric đo được 5mg. Bệnh nhân tiếp tục dùng đơn thuốc này thêm 20 ngày nữa, và rồi 60 ngày nữa. Cuối cùng bệnh. nhân cho biết không còn đau và không tái phát.

Tập hợp đầy đủ nhất các tài liệu Y Học Cổ Truyền do

LƯƠNG Y – BÁC SĨ HOÀNG DUY TÂN

Y Học Cổ Truyền Viêm Gan Mạn (Đông Y)

Là một bệnh bao gồm một loạt những rối loạn gan có nguyên nhân và mức độ trầm trọng khác nhau, trong đó hiện tượng viêm và hoại tử liên tục kéo dài trên 6 tháng.

Trước đây dựa vào tính chất khu trú hoặc lan tỏa của tổn thương gan mà người ta phân thành 3 loại: viêm gan mạn tồn tại (persitent), tiểu thùy (lobular) và tiến triển (active). Nhưng hiện nay sự phân loại lại dựa vào nguyên nhân, trạng thái mô học (grade), diễn tiến (stage).

Theo nguyên nhân

Viêm gan mạn do siêu vi: siêu vi B, siêu vi B + D, siêu vi C hoặc các loại siêu vi khác.

Viêm gan mạn tự miễn hoặc không rõ nguyên nhân.

Theo trạng thái mô học

Gồm các mức độ sau đây: Histology Activity Index (Knodell Ishak Score).

Phân loại theo diễn tiến

Dựa trên sự xơ hóa, trong đó xơ gan được định nghĩa là những dải xơ bao quanh những nốt chủ mô gan và cấu trúc tiểu thùy gan thay đổi.

Do đó so sánh giữa phân loại mới và cũ, hiện nay người ta có một sự đồng nhất như sau:

Cơ chế bệnh sinh của viêm gan mạn

Theo y học hiện đại

Trong phạm vi bài này, chúng tôi không đề cập đến viêm gan mạn do thuốc, chỉ xin nhấn mạnh một điều là không phải tất cả các phản ứng phụ nào ở gan do thuốc cũng đều gây nên viêm gan mạn. Chúng chỉ được gọi là viêm gan mạn do thuốc khi có những phản ứng biểu hiện sự tăng mẫn cảm như sốt, nổi mẩn, đau khớp, tăng bạch cầu ái toan (chỉ xảy ra 25% trường hợp) và cho dù có biểu hiện hình ảnh mô học như thế nào đi nữa thì cũng luôn luôn có hình ảnh hoại tử và gan hóa mỡ.

Viêm gan mạn do siêu vi:

Tất cả các hình ảnh mô học, sinh hóa và lâm sàng sẽ trở nên rõ ràng và trầm trọng khi siêu vi B, C và D đang ở trong giai đoạn sao chép mã di truyền (replicate) tương ứng với giai đoạn chẩn đoán huyết thanh cho thấy HbeAg (+), HbeAb (+), chúng tôi (+), chúng tôi (+), chúng tôi (+). Ở giai đoạn này các hình ảnh mô học sẽ là hoại tử và viêm quanh khoảng cửa, hoại tử trong thùy, hóa sợi với các mức độ từ trung bình tới nặng. Ngược lại, nếu ở vào giai đoạn không sao chép mã di truyền thì hình ảnh mô học, lâm sàng và sinh hóa thường nhẹ, có khi bệnh nhân chỉ ở trong trạng thái người lành mang bệnh.

Viêm gan tự miễn:

Ngược lại, trong viêm gan tự miễn, hiện tượng viêm và hoại tử tế bào gan xảy ra liên tục, đưa đến sự hóa xơ và suy tế bào gan. Sự tấn công miễn dịch qua trung gian tế bào mà ở đây tính đặc hiệu của gan (tế bào gan trở nên là kháng nguyên đối với tế bào miễn dịch) được khởi phát sau khi dùng thuốc hoặc bị nhiễm một loại siêu vi nào đó. Những bằng cớ sau đây cho thấy viêm gan tự miễn là một loại bệnh rối loạn miễn dịch qua trung gian tế bào.

Sự có mặt của tương bào và cytotoxie lympho trong gan.

Sự có mặt các tự kháng thể trongmáu, yếu tố dạng thấp và tăng globuline trong máu.

Có một trong các bệnh rối loạn miễn dịch khác cùng xuất hiện như viêm tuyến giáp, viêm khớp dạng thấp, viêm cầu thận, thiếu máu huyết tán miễn dịch, Sjogren.

DRW3 – DRW4.gSự có mặt các kháng nguyên tương hợp mô như HLA B1, B

Thường đáp ứng tốt với Corticoid.

Tế bào lympho trở nên rất nhạy cảm với protein của màng tế bào gan.

Mất kiểm soát cơ chế điều hòa miễn dịch trên các cytotoxie lymphocyte.

Tuy nhiên các phản ứng tự miễn nói trên không hẳn xảy ra trong bất kỳ lúc nào, nên có thể nhầm viêm gan tự miễn với viêm gan không rõ nguyên nhân (cryptogenic).

Theo y học cổ truyền

Bệnh viêm gan mạn được y học cổ truyền khái quát trong phạm trù các chứng Hoàng đản, Hiếp thống đi cùng với các rối loạn tiêu hóa mà nguyên nhân có thể do:

Cảm phải thấp nhiệt tà khiến cho Can khí uất kết, không sơ tiết được Đởm mà sinh ra vàng da.

Do ăn uống không điều độ, lao lực quá mức, kết hợp với uống rượu khiến cho công năng tiêu hóa của Tỳ Vị bị rối loạn sinh ra thấp, thấp ứ đọng lâu ngày đưa đến nhiệt, thấp nhiệt uất kết sinh ra chứng Hoàng đản.

Chẩn đoán theo y học hiện đại

Viêm gan mạn do siêu vi

Biểu hiện lâm sàng có thể từ nhẹ đến nặng như mệt mỏi, vàng da dai dẳng hoặc từng đợt. Riêng trong viêm gan mạn do siêu vi C biểu hiện lâm sàng thường là âm ỉ và chỉ trở nên nặng trên những bệnh nhân có nghiện rượu, có bệnh nhiễm thiết huyết tố (hemochromatosis) hoặc thiếu α1antitrypsine. Ngoài ra, nếu trong viêm gan mạn do siêu vi B thường có các triệu chứng ngoài gan do cơ chế phối hợp kháng thể kháng nguyên siêu vi B như viêm khớp, viêm cầu thận, polyarteritis nodosa và viêm mạch máu kiểu leukocytoclastic thì trong viêm gan mạn do siêu vi C thường có các triệu chứng ngoài gan không do phức hợp miễn dịch như hội chứng Sjogren, Liehenplanus, Porphyrie cutanea tarda.

Về mặt cận lâm sàng:

SGPT tăng từ 100 – 1.000 UI và luôn cao hơn SGOT (Riêng viêm gan mạn do siêu vi C thì chỉ số SGPT thấp hơn).

Phosphatase tăng nhẹ hoặc bình thường.

Bilirubine tăng 3 – 10 mg%.

Albumine máu giảm.

Thời gian Prothrombine kéo dài xảy ra trong giai đoạn cuối hoặc nặng.

Và sau cùng để chẩn đoán viêm gan mạn do siêu vi nào, ta cần chú ý đến một số huyết thanh chẩn đoán sau đây:

Để chẩn đoán siêu vi B: ta dùng đến HbsAg, IgG Anti HBC, HbeAg, HBV.DNA.

Để chẩn đoán siêu vi C: ta dùng đến Anti HCV, HCV.RNA.

Để chẩn đoán siêu vi D: ta dùng đến Anti HDV, HDV.RNA.

Ngoài ra, trong viêm gan mạn do siêu vi C còn có kháng thể Anti

KLM1 (Antikidney liver microsomal) cũng như những bệnh tự miễn hoặc hyperglobuline lại cho phản ứng dương giả với Anti HCV, và trong viêm gan mạn do siêu vi D cũng có kháng thể Anti KLM3.

Viêm gan mạn do tự miễn

Biểu hiện lâm sàng: thường xảy ra ở người trẻ hoặc phụ nữ trung niên, hội chứng lâm sàng gồm có mệt mỏi, khó chịu, chán ăn, mất kinh, mụn trứng cá, đau khớp, vàng da. Đôi khi lại có viêm khớp, tổn thương da kiểu maculo – papular cruption hoặc erythemanodosum, viêm đại tràng, viêm màng phổi, màng tim, thiếu máu, tăng urê máu.

Về mặt cận lâm sàng: thường đi đôi với hình ảnh mô học.

Transaminase dao động từ 100 – 1.000 UI.

Bilirubine tăng 3 – 10 mg%.

Phosphatase alkaline tăng nhẹ.

RF (+), Kháng thể kháng nhân (ANA) (+).

Albumine và taux de Prothrombine giảm khi bệnh diễn tiến nặng.

Ngoài ra người ta còn phân biệt:

Viêm gan tự miễn type I: hay xảy ra ở người trẻ có hyperglobuline và ANA (+).

Viêm gan tự miễn type II: chia làm 2 type nhỏ:

IIA: hay xảy ra ở phụ nữ trẻ với hyperglobuline, Anti KLM1 (+) cao và đáp ứng tốt với Corticoid.

IIB: xảy ra ở người lớn tuổi, với hyperglobuline nhưng Anti KLM1 (+) thấp.

Viêm gan tự miễn type III: với ANA (+) và Anti KLM1 (+) đồng thời có kháng thể tuần hoàn chống lại kháng nguyên gan hòa tan (solube liver antigen).

Đối với viêm gan mạn do siêu vi B: Thời gian sống sót 5 năm là:

97% nếu là thể tồn tại.

86% nếu là thể tiến triển.

55% nếu là thể tiến triển + xơ gan.

Và đặc biệt nặng khi có kết hợp nhiễm siêu vi D.

Đối với viêm gan mạn do siêu vi C:

Bệnh nhân có thể sống 10 – 20 năm, tuy nhiên diễn tiến sẽ xấu đi trên người nghiện rượu, nhiễm thêm siêu vi B, bệnh thiết huyết tố và thiếu α1 Antitrypsine.

Đối với viêm gan mạn tự miễn: Khi bệnh trở nên nặng thì tỷ lệ tử vong trong 6 tháng là 40%.

Chẩn đoán theo y học cổ truyền

Thể Can uất Tỳ hư

Thường gặp trong viêm gan mạn tiểu thùy hoặc giai đoạn viêm gan mạn tồn tại chuyển sang viêm gan mạn tiến triển với những triệu chứng đau tức nặng vùng hông sườn phải, miệng đắng, ăn kém, người mệt mỏi, đại tiện phân nhão, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch huyền.

Thể Can âm hư

Thường gặp trong viêm gan mạn tồn tại hoặc giai đoạn thuyên giảm sau viêm gan mạn tiến triển. Triệu chứng gồm có: hồi hộp, ít ngủ, lòng bàn tay, bàn chân nóng, sốt âm ỉ 37,5 – 38oC, khát nước, họng khô hay gắt gỏng, lưỡi đỏ, táo bón, nước tiểu vàng, mạch huyền tế sác.

Thể Can nhiệt Tỳ thấp

Thường gặp trong viêm gan mạn tiến triển với các triệu chứng miệng đắng, chán ăn, bụng đầy chướng, miệng khô nhớt, đau nhiều vùng gan, da vàng xạm, tiểu tiện vàng, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch huyền.

Điều trị theo y học hiện đại

Đối với viêm gan siêu vi Viêm gan mạn do siêu vi B:

Vấn đề điều trị bằng Interferon chỉ đặt ra khi:

1/ Huyết thanh chẩn đoán HbeAg (+) và chúng tôi (+).

2/ SGPT tăng cao.

3/ Nhiễm HBV lúc trưởng thành.

4/ Bệnh gan còn bù.

Tiêu chuẩn còn bàn cãi là tổn thương mô học mức độ nhẹ, SGPT < 1,5 lần bình thường, tiền sử có đợt tái phát sau khi dùng Interferon và không ích lợi gì khi dùng Interferon nếu bệnh nhân bị bệnh gan mất bù, SGPT bình thường và không đáp ứng với liều Interferon trước đó.

Sử dụng Interferon hiện nay có 3 chế phẩm Interferon α2A (‘Roferon A’), Interferon α2B (‘Roferon A’), và Interferon αN (‘Wellferon’), về mặt tác dụng, chúng có 2 cơ chế:

Cơ chế diệt siêu vi: khi kết hợp receptor đặc biệt ở bề mặt tế bào gan, nó sẽ phóng thích ra một men nội bào 2,5 oligo adenylate synthetase, chính men này sẽ hoạt hóa ribonuclease để phá hủy mRNA của siêu vi.

Cơ chế miễn dịch: gia tăng sự bộc lộ Protein bề mặt màng tế bào HLA class I có nghĩa là làm thúc đẩy sự thải loại các tế bào gan bị nhiễm siêu vi, làm gia tăng hoạt tính tế bào giết (killer cell), làm trưởng thành tế bào cytotoxic, đồng thời ngăn chặn Procollagen type III là chất thúc đẩy gan hóa sợi.

Liều sử dụng tiêm bắp hay tiêm dưới da là 5 triệu đơn vị mỗi lần, 3 lần/tuần và liên tục trong 16 – 24 tuần.

Người ta nhận thấy với viêm gan mạn do siêu vi B thì 80% SGPT sẽ trở về bình thường và 30% trường hợp HbeAg và chúng tôi âm tính, trong đó SGPT trở về bình thường thành 2 pha: pha đầu giảm nhẹ rồi tăng cao và sau đó trở về bình thường (do sự hoại tử của tế bào gan bị nhiễm).

Riêng đối với viêm gan mạn do siêu vi C thì trong 60% trường hợp SGPT trở về bình thường và từ 10 – 30% trường hợp có chúng tôi trở về bình thường.

Thuốc thường gây những phản ứng phụ như mệt mỏi, đau cơ, chán ăn, sụt cân, rụng tóc, giảm tiểu cầu và bạch cầu, một số trường hợp khác có xuất huyết võng mạc.

Ngoài ra, gần đây người ta đang thí nghiệm một số thuốc mới trong điều trị viêm gan mạn do siêu vi B như sau:

Nhóm Nucleoside đồng phân mà qua quá trình phosphoryl hóa nó sẽ tương tranh với những acid nhân cơ bản trong chuỗi DNA của siêu vi B. Có thể kể đến Lamivudine – Famciclovir – Vidarabine, trong đó Lamivudine có thể ngăn chặn men sao chép ngược để chuyển đổi HBV-RNA thành ra HBV-DNA của siêu vi B. Đây là một loại biệt dược uống, được dung nạp tốt cả trên bệnh nhân bị xơ gan cổ chướng. Thuốc chỉ gây phản ứng phụ là nhức đầu, buồn nôn và mệt mỏi.

Nhóm điều hòa miễn dịch gồm Thymosin (chất chiết suất của Thymus) với cơ chế tác dụng là tăng hoạt chức năng của T cell và Interleukin II, ức chế sự sinh sản của siêu vi mặc dù có nhiều tác dụng phụ.

Đối với viêm gan tự miễn:

80% trường hợp đáp ứng với Glucocorticoid nhưng không ngăn ngừa được diễn tiến tới xơ gan. Liều dùng là 60 mg Prednisone/ngày, sau khi đạt kết quả hạ liều xuống dần trong 1 tháng và duy trì ở liều 20 mg/ngày. Hoặc có thể dùng 30 mg/ngày kết hợp với Azathioprine 50 mg/ngày, sau khi đạt kết quả hạ liều Prednisone xuống còn 10 mg/ngày. Cách điều trị này kéo dài trong 18 tháng và làm giảm các tác dụng phụ của Prednisone từ 66% xuống khoảng 20%. Cách dùng này chỉ áp dụng cho viêm gan tự miễn nặng, các dấu hiệu mệt mỏi, chán ăn, vàng da sẽ được cải thiện trong vài tuần, các dấu hiệu sinh hóa như Albumine, Bilirubine, Globuline sẽ trở về bình thường sau vài tháng. Sự thay đổi hình ảnh mô học sẽ cải thiện từ 6 tháng – 2 năm. Cần điều trị liên tục 1 năm đến 1 năm rưỡi, dù tỷ lệ tái phát có là 50% thì cũng vẫn tiếp tục như cũ.

Điều trị theo y học cổ truyền

Việc điều trị viêm gan mạn gồm 3 phương pháp sau Thể Can nhiệt Tỳ thấp

Phép trị: Thanh nhiệt, trừ thấp với mục đích:

Hạ sốt: nhờ có Flavon trong Hoàng cầm có tác dụng ức chế men polyphenol oxidase gây sốt trong bệnh lý tự miễn.

Lợi mật và tống mật: nhờ có acid chlorogenic và 6,7 dimethyl-coumarine có trong Nhân trần hoặc Mg silicat có trong Hoạt thạch.

Lợi tiểu và bảo vệ tế bào gan: Nhân trần.

Tăng khả năng miễn dịch của cơ thể: Phục linh.

Những bài thuốc sử dụng:

Bài thuốc Nhân trần ngũ linh tán gồm Nhân trần 20g, Bạch truật 12g, Phục linh 12g, Trư linh 8g, Trạch tả 12g, Xa tiền tử 12g, Đảng sâm 16g, Ý dĩ 16g.

Nếu do viêm gan siêu vi nên tăng liều Bạch truật, Phục linh lên 20g, giảm liều Đảng sâm 10g, thêm Diệp hạ châu 50g.

Nếu do viêm gan tự miễn nên tăng liều Đảng sâm 30g, gia thêm Cam thảo bắc 30g.

Bài thuốc Hoàng cầm hoạt thạch thang (Ôn bệnh điều biện) gồm Hoàng cầm 12g, Hoạt thạch 12g, Đại phúc bì 12g, Phục linh 8g, Trư linh 8g, Đậu khấu 8g, Kim ngân 16g, Mộc thông 12g, Nhân trần 20g, Cam thảo bắc 4g.

Phân tích bài thuốc:

Nếu có nóng sốt, vàng da nên tăng liều Hoàng cầm, Hoạt thạch 20g.

Nếu vàng da hoặc tăng Tramsaminase nên tăng liều Nhân trần 30g.

Thể Can uất Tỳ hư

Phép trị: Sơ Can kiện Tỳ với mục đích:

Kích thích tiêu hóa thông qua tác dụng tăng hoạt tính của men tụy như Bạch truật, Phục linh, Trần bì…

Bảo vệ tế bào gan: Sài hồ, Đương quy, Đại táo, Glyciridine của Cam thảo.

Điều hòa chức năng miễn dịch: Sài hồ, Đảng sâm, Bạch truật, Glucide của Bạch thược.

Kháng virus viêm gan: Sài hồ.

Những bài thuốc sử dụng:

Bài thuốc Sài hồ sơ can thang gia giảm gồm Sài hồ 12g, Bạch thược 8g, Chỉ thực 6g, Xuyên khung 8g, Hậu phác 6g, Cam thảo bắc 6g, Đương quy 8g, Đại táo 8g.

Nếu cảm giác đau tức nặng vùng gan làm bệnh nhân khó chịu, nên tăng thêm liều Bạch thược, Cam thảo 12g, Xuyên khung 10g, Chỉ thực 10g, Hậu phác 10g.

Nếu bệnh nhân bị viêm gan mạn do các bệnh tự miễn, tăng liều Bạch thược, Cam thảo bắc 20 – 30g.

Nếu viêm gan mạn do siêu vi, nên gia thêm Diệp hạ minh châu (chó đẻ răng cưa) 50g để ức chế men AND polymerase của siêu vi B, tăng Đương quy, Đại táo 20g.

Bài thuốc Sài thược lục quân gia giảm gồm Sài hồ 12g, Bạch thược 12g, Bạch truật 12g, Đảng sâm 12g, Phục linh 8g, Trần bì 6g, Bán hạ 6g, Cam thảo bắc 6g.

Phân tích bài thuốc:

Nếu bệnh nhân chán ăn, người mệt mỏi, đại tiện phân nát gia thêm Bạch truật, Đảng sâm mỗi thứ 10g, Phục linh 12g.

Nếu lợm giọng, buồn nôn gia thêm Trần bì, Bán hạ chế 10g.

Nếu viêm gan mạn do siêu vi nên gia thêm Diệp hạ minh châu 50g để ức chế men AND polymerase của siêu vi B.

Nếu viêm gan mạn do bệnh tự miễn thì tăng liều Bạch truật, Đương quy, Đảng sâm, Cam thảo bắc lên 20 – 30g.

Nếu viêm gan mạn do dùng thuốc hay rượu thì tăng liều Cam thảo bắc, Bạch truật lên 20 – 30g.

Thể Can âm hư

Phép trị: Tư dưỡng Can âm với mục đích:

An thần: do Nữ trinh tử, Hà thủ ô đỏ.

Bảo vệ tế bào gan chống thoái hóa mỡ: Betaine do Câu kỷ tử.

Tăng chức năng miễn dịch của cơ thể: Glucocide Bạch thược, polysaccharide của Kỷ tử.

Hạ sốt: Sa sâm.

Những bài thuốc sử dụng:

Bài thuốc Nhất quán tiễn gia giảm gồm Sa sâm 12g, Sinh địa 12g, Nữ trinh tử 12g, Mạch môn 12g, Bạch thược 12g, Kỷ tử 12g, Hà thủ ô đỏ 12g.

Nếu viêm gan mạn do siêu vi nên tăng liều Bạch thược 20g, Kỷ tử 30g, thêm Diệp hạ minh châu 50g.

Nếu viêm gan mạn do rượu nên tăng liều Kỷ tử lên 30g.

Bệnh Gút Trong Y Học Cổ Truyền

Tăng acic uric bẩm sinh: Do thiếu men H.G.P.T nên lượng acid tăng cao ngay từ nhỏ, bệnh có các biểu hiện toàn thân, thần kinh, thận và khớp, bệnh rất hiếm và rất nặng (bệnh Lesch – Nyhan).

Bệnh gút nguyên phát gắn liền với các yếu tố di truyền và cơ địa, quá trình tổng hợp purin nội sinh tăng nhiều gây tăng acid uric, đây là nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh gút.

Bệnh gút thứ phát: Do ăn nhiều gan, lòng, thịt, cá, nấm, tôm, cua, uống nhiều rượu. Do tăng cường thoái giáng purin nội sinh. Do giảm thải acid uric qua thận.

Trong bệnh gút các vi tinh thể urat lắng đọng ở màng hoạt dịch gây sưng đau các khớp, ngoài ra urat có thể lắng đọng ở một số cơ quan ngoài khớp như ở gân, túi thanh dịch, ngoài da, ngoài móng tay, chân, màng ngoài tim, cơ tim, van tim.

Bệnh gút tiến triển từ 10 – 20 năm, trong quá trình diễn biến mạn tính xen kẽ những đợt cấp làm bệnh nặng thêm. Bệnh nhân tử vong do các biến chứng thận, nhiễm khuẩn phụ, suy mòn.

Y học hiện đại chia bệnh gút thành 2 thể:

Gút cấp tính: Biểu hiện bằng những đợt viêm cấp và đau dữ dội của khớp bàn ngón chân cái nên còn gọi là “gút do viêm”.

Gút mạn tính: Biểu hiện bằng dấu hiệu nổi các cục “tophi” và viêm đa khớp mạn tính, do đó còn được gọi là “gút do lắng đọng”

Y học cổ truyền

YHCT gọi là thống phong, nguyên nhân do ngoại tà xâm phạm vào cơ thể làm bế tắc kinh lạc, khí huyết ứ trệ tại các khớp gây sưng, đau, co duỗi vận động khó. Lúc đầu bệnh còn ở bì phu kinh lạc, lâu ngày tà khí vào gân xương, tạng phủ. Khí huyết, tân dịch ứ trệ lâu ngày hóa đàm, đàm uất kết thành u cục quanh khớp, dưới da. Bệnh biểu hiện nhiều năm, đôi khi xuất hiện đợt cấp làm tổn thương can thận, làm biến dạng các khớp. Y học cổ truyền cho rằng thống phong có thể quy thuộc phạm trù chứng tý và chia làm 2 thể bệnh sau

Bệnh gút Thể phong thấp nhiệt (đợt cấp)

Triệu chứng: đột ngột khớp bàn ngón chân cái sưng, nóng, đỏ đau, không dám sờ, đụng vào, đau đầu, sốt, khát nước, miệng khô, sợ lạnh, tiểu tiện vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch phù sác.

Pháp điều trị: Khu phong, thanh nhiệt trừ thấp, hoạt huyết, chỉ thống.

Bài thuốc:

Bài 1: Gia vị tam diệu thang

Thương truật 15g Hoàng bá 12g

Ý dĩ nhân 30g Ngưu tất 12g

Mộc qua 12g Thanh đại 6g

Hoạt thạch 15g Tri mẫu 9g

Kê huyết đằng 30g Đương quy 15g

Xích thược 15 Tỳ giải 12g

Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2: Bạch hổ gia quế chi thang gia giảm

Thạch cao sống 40g (sắc trước)

Tri mẫu 12g Quế chi 6g

Bạch thược 12g Xích thược 12g

Kim ngân đằng 20g Phòng kỷ 10g

Mộc thông 10g Hải đồng bì (vỏ cây vông nem) 10g

Cam thảo 8g

Sắc uống ngày 1 thang.

Nếu khớp sưng đau nhiều: tăng Kim ngân đằng lên 50g và gia Thổ phục linh 16g, Ý dĩ nhân 16g để tăng khả năng trừ thấp và gia Toàn đương quy, Đan sâm, Trạch lan, Đào nhân, Hồng hoa, Tằm sa để hoạt huyết hóa ứ chỉ thống.

Nếu có biểu chứng kèm theo gia thêm Độc hoạt, Tế tân để giải biểu tán hàn chỉ thống.

Châm cứu: Châm tả Thận du, Khí hải du, Bàng quang du, Quan nguyên, Tam âm giao và các a thị huyệt tại khớp đau và vùng lân cận.

Bệnh gút Thể đàm thấp ứ trệ (mạn tính)

Gút (thống phong) mạn tính có thể tiếp theo Gút cấp tính nhưng phần lớn là bắt đầu từ từ tăng dần thông qua các đợt cấp.

Triệu chứng: Nhiều khớp sưng to, đau kéo dài, co duỗi khó, tại khớp không nóng đỏ nhưng đau nhiều, biến dạng kèm theo da tím sạm đen, chườm nóng dễ chịu, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, xuất hiện nốt u cục quanh khớp, dưới da và vành tai sờ thấy mềm, không đau, mạch trầm huyền hoặc khẩn là biểu hiện của hàn thấp ứ trệ.

Pháp điều trị: Khu hàn, thông lạc, trừ thấp, chỉ thống.

Bài thuốc:

Nghiệm phương

Ô đầu chế 4g Tế tân 4g

(Hai vị này sắc trước)

Toàn đương quy 12g Xích thược 12g

Uy linh tiên 10g Thổ phục linh 16g

Ý dĩ nhân 20g Tỳ giải 12g

Mộc thông 10g Quế chi 6g

Sắc uống ngày 1 thang.

Nếu nhiều khớp sưng đau, cứng khớp, rêu lưỡi trắng, dầy bẩn, mạch hoạt là biểu hiện đàm trọc ứ trệ. Vẫn dùng bài thuốc trên gia: Trích cương tàm, Xuyên sơn giáp, Tạo giác thích, Hy thiêm thảo, Hải đồng bì để hoạt lạc trừ đàm.

Nếu các khớp đau như dao đâm, dùi chọc, mạch sáp, lưỡi tím bầm là biểu hiện của huyết ứ, gia thêm: Ngô công, Toàn yết sao, Diên hồ sách để hoạt huyết chỉ thống.

Nếu xuất hiện đau lưng mỏi gối, sợ lạnh, tay chân lạnh, chất lưỡi bệu, mạch trầm hoãn vô lực, liệt dương là biểu hiện của thận dương hư, dùng bài thuốc trên gia thêm: Cốt toái bổ, Nhục thung dung để bổ thận kiện cốt.

Nếu kèm theo dấu hiệu khí huyết hư gia thêm: Hoàng kỳ, Bạch truật, Nhân sâm, Đương quy.

Châm cứu: Châm bổ các huyệt như thể phong thấp nhiệt.

Dự phòng bệnh tái phát Chế độ ăn uống, sinh hoạt.

Kiêng uống rượu và các chất kích thích: ớt, cà phê, thuốc lá…

Hạn chế các thức ăn có chứa nhiều purin: phủ tạng động vật (lòng, gan, tim , tiết) thịt, cá, cua, nấm, rau dền, đậu Hà lan, đậu hạt các loại. Có thể ăn trứng, sữa, uống bia, hoa quả, thịt chỉ nên ăn dưới 100g/ngày.

Uống nhiều nước (tối thiểu 2 lít/ngày), nên uống các loại nước khoáng có nhiều Bicacbonat, nếu không thì uống dung dịch bicacbonat – Na 3%.

Tránh làm việc quá sức, tránh lạnh.

Không nên dùng thuốc lợi tiểu Cholorothiazid, steroid.

Phẫu thuật: Khi các u cục (tophi) quá to, cản trở vận động (ở ngón chân cái không đi giầy được, ở khuỷu tay khó mặc áo) cần phẫu thuật cắt bỏ.

Nếu có tổn thương thận: Cần chú ý tình trạng nhiễm khuẩn (viêm thận kẽ), tình trạng suy thận tiềm tàng, sỏi thận, tăng huyết áp để xử lý kịp thời

Chứng Can Thận Âm Hư Trong Y Học Cổ Truyền

Chứng Can Thận Âm hư là do Thận âm bất túc dẫn đến Can âm bất túc; hoặc Can âm bất túc dẫn đến Thận âm khuy tổn mà thành bệnh, trên lâm sàng biểu hiện đầy đủ các chứng trạng âm hư của hai tạng Can và Thận, phần nhiều do ốm lâu lao thương, hoặc bệnh tả Ôn nhiệt làm hao thương Can âm và Thận âm gây nên.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là mắt nhìn lờ mờ hoặc quáng gà, gân mạch co cứng, tê dại, co giật, móng tay chân khô ròn, đau sườn, chóng mặt, ù tai, lưng đùi ê mỏi, tóc rụng, răng lung lay, di tinh gầy còm, họng khô miệng ráo, ngũ tâm phiền nhiệt, về chiều sốt từng cơn, gò má đỏ mồ hôi trộm, hư phiền mất ngủ, tiểu tiện vàng, đại tiện khô, chất lưỡi đỏ ít rêu hoặc không có rêu, mạch Trầm Huyền Tế Sác.

Chứng Can Thận âm hư thường gặp trong các bệnh Hiếp thống, Yêu thống, Hư lao, Huyết chứng, Huyễn vậng, Kinh nguyệt trước kỳ, Bế kinh và Thống kinh v.v…

Cần chẩn đoán phân biệt với các chứng Tâm Thận bất giao, chứng Phế Thận âm hư và chứng Thận tinh bất túc.

Phân tích

– Chứng Can Thận âm hư có thể xuất hiện trong nhiều bệnh tật, Trong bệnh Hiếp thống (đau sườn) xuất hiện chứng Can Thận âm hư có đặc điểm vùng sườn đau âm ỉ dằng dai không dứt có kiêm các chứng trạng Can Thận âm khuy như đùi lưng ê mỏi, váng đầu hoa mắt, nóng từng cơn, mồ hôi trộm. Đây là do nội thương bất tình, hoá hoả thương âm, ốm lâu tinh huyết khuy tổn, mạch lạc mất sự nuôi dưỡng gây nên. Mực Hiếp thống sách Cảnh Nhạc toàn thư viết: “Chứng đau sườn thuộc nội thương hư tổn, gặp trong những người phòng lao quá độ và Thận hư gầy còm, phần nhiều vùng sườn đau âm ỉ, đây là do Can Thận tinh hư không hoá khí, khí hư không sinh huyết gây nên”; Điều trị nên tư bổ Can Thận, cho uống bài Nhất quán tiễn(Liễu châu y thoại).

– Chứng Can Thận âm hư trong bệnh Yêu thống, tính chất yêu phần nhiều là âm ỉ ê mỏi, lưng đùi vô lực, gặp mệt nhọc thì đau tăng, khi đi nằm thì đỡ đau, hơn nữa còn thêm các chứng mắt hoa nhìn mọi vật lờ mờ; Bệnh phần nhiều phú bẩm bất túc, ốm lâu thể lực yếu, hoặc phòng lao quá độ, gân mạch mất sự nuôi dưỡng gây nên; Điều trị nên tư bổ Can Thận, chọn dùng bài Tả qui hoàn (Cảnh Nhạc toàn thư).

Trong bệnh Hư lao cũng xuất hiện chứng này, người bệnh biểu hiện ngoài những chứng trạng do Can Thận âm tinh bất túc như lưng đùi ê mỏi, choáng váng tai ù, mắt nhìn lờ mờ, phần nhiều còn có thêm cả chứng trạng khuy tổn về khí huyết của nhiều tạng phủ toàn thân, nguyên nhân bệnh như mục Hư lao sách Y học cương mục viết: “Chứng hư là chỉ bì mao, cơ bắp, gân và móng tay chân, xương tuỷ và khí huyết tân dịch bất túc; Như nam giới suốt ngày bị mệt nhọc, hao tổn tinh thần, sức lực mòn mỏi, đói no thất thường, mừng giận lo nghĩ, cơ thể lạnh uống lạnh, buông thả sắc dục… nguồn gốc từ đó dẫn đến hư kiệt”… Thượng cổ thiên chân luận sách Tố Vấn cũng viết: “Người đời nay thì không như thế, lấy rượu uống thay nước, lấy càn dỡ làm chuyện bình thường, say sưa mà nhập phòng làm hao kiệt cái tinh, hao tán chân nguyên, chẳng biết thế nào là đủ, không giữ được thần khí chỉ cốt khoái cảm, trái ngược lẽ sống, nằm ngồi không điều độ, cho nên chưa nửa trăm tuổi đã suy”. Điều trị nên tư bổ Can Thận, cho uống bài Đại bổ âm hoàn (Đan Khê tâm pháp).

– Chứng Xỉ nục – chảy máu răng – trong Huyết chứng cũng có thể biểu hiện đầy đủ chứng trạng Can Thận âm hư; Đây là do tình chí nội thương, buông thả sắc dục. Can Thận âm khuy, âm hư nội nhiệt, hun đốt mạch lạc, đường lạc bị thương thì huyết trào ra ngoài gây nên; xuất huyết có đặc điểm là sắc huyết hồng nhạt, chân răng lung lay và hơi đau, như Huyết môn sách Cảnh Nhạc toàn thư viết: “Huyết chảy ra từ chân răng, kẽ răng gọi là Xỉ nục, đây là bệnh của hai kinh Thủ Túc Dương minh và Túc Thiếu âm Thận. Thận thủy bất túc, miệng không hôi, răng không đau, chỉ riêng răng lung lay không chắc, hoặc hơi đau, kẽ răng phần nhiều chảy máu, đó là Thận âm không bền hư hoả bị xúc động gây nên”. Điều trị nên tư âm giáng hoả, lương huyết chỉ huyết, chọn dùng bài Tư thủy thanh Can ẩm (Y tôn Kỷ nhiệm biên), hợp với Thiến căn tán (Cảnh Nhạc toàn thư).

– Bệnh Huyễn vậng xuất hiện chứng Can Thận âm hư, phát hiện lâm sàng từ từ, bệnh trình khá dài, triệu chứng huyễn vậng khá nhẹ, phần nhiều thuộc Hư Huyễn, nhắm mắt đi nằm thì bệnh giảm, đồng thời còn có kiêm chứng trạng khác của Can Thận ám khuy, bệnh đa số do Thận thuỷ khuy hư, thủy không hàm mộc, phong dương quấy nhiễu lên trên; hoặc là Can Thận âm tinh suy hao không sinh được tuỷ, tuỷ hải bất túc gây nên; Mục Hải luận sách Linh Khu viết: “Tư ỷ hải hữu dư thì sức lực dồi dào nhẹ nhõm, có thể làm vượt sức mình; Tuỷ hải bất túc thì đầu choáng tai ù, đùi mỏi mắt hoa, thậm chí mắt chẳng nhìn thấy gì, lười biếng chỉ thích nằm”; Điều trị nên tư bổ Can Thận, chọn dùng bài Kỷ Cúc địa hoàng hoàn (Y cấp).

– Trong bệnh Hành kinh sớm của phụ nữ xuất hiện chứng Can Thận âm hư, biểu hiện lâm sàng là hành kinh trước kỳ, lượng ít sắc đỏ, chất dính, có thêm chứng trạng âm hư nội nhiệt như hai gò má đỏ, lòng bàn tay chân nóng; Đây là Can Thận âm khuy, âm hư nội nhiệt, bức huyết đi càn, hai mạch Xung Nhâm không bền gây nên. Mục Điều kinh sách Phó thanh chủ nữ khoa viết: “Hành kinh ra trước kỳ chỉ thấy một vài giọt, người ta cho là huyết nhiệt quá, chẳng ai biết là hoả vượng ở trong Thận mà thuỷ suy hay sao?… Kinh đến sớm mà lượng ít, đó là hoả nhiệt mà thủy bất túc vậy…”; Điều trị nên dưỡng âm thanh nhiệt, chọn dùng Lưỡng địa thang (Phó thanh chủ nữ khoa).

– Chứng Can Thận âm hư gặp trong bệnh Bế kinh của phụ nữ có biểu hiện hành kinh ban đầu hơi muộn, lượng ít sắc đỏ hoặc nhạt, dần dần dẫn đến Bế kinh; Phần nhiều do phú bẩm tiên thiên bất túc, thiên quý không đầy đủ, hoặc ốm lâu hư tổn, Can Thận tinh khuy huyết thiếu, Xung Nhâm mất điều dưỡng gây nên; Điều trị nên tư bổ Can Thận, dưỡng huyết điều kinh, chọn dùng bài Quy Thận hoàn (Cảnh Nhạc toàn thư).

– Trong bệnh Thống kinh của phụ nữ gặp chứng Can Thận âm hư, đặc điểm lâm sàng là sau khi hành kinh đau âm ỉ bụng dưới liên miên không dứt sắc kinh nhạt lượng ít; Phần nhiều do Can Thận hư, tinh khuy huyết thiếu, hai mạch Xung Nhâm rỗng không, Bào lạc không được nuôi dưỡng gây nên; Điều trị nên điều bổ Can Thận, dưỡng huyết chỉ thống cho uống bài Điều Can tán (Phó thanh chủ nữ khoa).

Chứng Can Thận hư phần nhiều phát sinh ở người thể trạng gầy còm, hoặc là phú bẩm tiên thiên bất túc; Bởi vì sinh lý của phụ nữ có những đặc điểm như nguyệt kinh, mang thai, sinh đẻ, bú mớm v.v… rất dễ làm cho âm huyết bất túc, cho nên đa số phát sinh bệnh ở phụ nữ chính như ngũ âm ngũ vị thiên sách Linh Khu viết: “Người phụ nữ sinh ra, có thừa về Khí, bất túc về Huyết, là vì bị thoát huyết nhiều lần”.

Can Chứa huyết chủ về sơ tiết; Thận chứa tinh chủ về phát dục sinh thực, về sinh lý, Can huyết và Thận tinh cùng dựa vào nhau: Can huyết đầy đủ thì huyết có thể hoá tinh; Thận tinh có dồi dào thì tinh có thể hoá ra huyết, cho nên về bệnh lý, Can âm bất túc với Thận âm khuy tổn thường có thể đồng thời xuất hiện; Trong quá trình biến hoá cơ chế bệnh của chứng Can Thận âm hư thường có vài tình huống: Can Thận âm khuy không khả năng chế ước được Can dương, Can dương thăng phát thái quá, nghịch loạn bên trên thì biểu hiện các chứng trạng Can dương thượng cang như đầu chướng đau, mặt đỏ hồng, nóng nẩy dễ cáu giận. Can Thận âm khuy lại có thể dẫn đến Phế âm suy hao, Phế âm bất túc, mất chức năng thanh nhuận túc giáng, âm hư hoả vượng, hun đốt Phế lạc, có thể thấy các chứng trạng ho khan đoản hơi, đờm ít mà dính, miệng ráo họng khô, khàn tiếng, khái thấu ra lẫn máu hoặc khạc ra máu. Can âm hư thì không giúp được cho Tâm ở trên, Tâm âm cũng khuy, âm hư nội nhiệt quấy rối tâm thần, có thể xuất hiện các chứng trạng tâm phiền không ngủ được, hay mê chóng quên, sợ sệt không yên. Thận là đất đai của thủy hoả, Thận là nơi ký gửi nguyên âm nguyên dương cùng dựa vào nhau mà tồn tại, cùng chế ướ lẫn nhau, trong quá trình tật bệnh cũng ảnh hưởng lẫn nhau; Can Thận âm hư, âm tổn hại liên lụy đến Dương làm cho Thận dương cũng hư mất chức năng sưởi ấm, không còn quyền lực khí hoá có thể xuất hiện các chứng trạng cơ thể lạnh chân tay lạnh, sắc mặt trắng bệch, lưng đùi lạnh mỏi, tiểu tiện trong dài hoặc di niệu, từ lưng trở xuống phù thũng nặng hơn, hình thành chứng hậu âm dương đều hư.

Chẩn đoán phân biệt

– Chứng Tâm Thận bất giao với chứng Can Thận âm hư: Tâm thuộc hoả chứa Thần, vị trí ở Thượng tiêu; Thận thuộc thủy chứa tinh, vị trí ở Hạ tiêu. Trên sinh lý, Tâm dương giáng xuống Thận để làm ấm Thận thủy, Thận âm đưa lên giúp đỡ Tâm để nuôi Tâm âm. Nếu Tâm Thận mất đi, quan hệ thủy hỏa cùng giúp đỡ nhau, Thận thủy bất túc, không hướng lên trên để tư dưỡng Tâm âm, âm không chế được Dương, Tâm dương một mình găng ở trên không giao với Thận ở dưới, sẽ hình thành chứng Tâm Thận bất giao. Chứng này ngoài những chứng trạng Tâm Thận âm hư như lưng gối yếu mỏi, váng đầu ù tai, nóng từng cơn, mồ hôi trộm, ngũ tâm nhiều nhiệt, còn có kiêm cả biểu hiện Tâm dương găng một phía như hư phiền mất ngủ, hồi hộp v.v… mà không có hiện tượng Can âm hư. Chứng Can Thận âm hư không chỉ tồn tại biểu hiện Thận âm hư mà còn có cả chứng trạng Can âm hư như hai mắt khô rít, mắt hoa nhìn vật lờ mờ gân mạch co rút, tê dại co giật, móng tay chân khô ròn và sườn đau mà không biểu hiện Can dương găng một mình. Biểu hiện lâm sàng của hai chứng đều có đặc điểm riêng, không khó phân biệt.

– Chứng Phế Thận âm hư với chứng Can Thận âm hư cả hai đều thuộc âm hư, biểu hiện lâm sàng đều thấy chứng trạng về Thận âm hư như chóng mặt, ù tai, thị lực giảm, hay quên ít ngủ, lưng đùi mềm yếu, thể trạng gầy còm, miệng khô, họng ráo ngũ tâm phiền nhiệt, về chiều sốt cơn, mồ hôi trộm, gò má đỏ, nam giới di tinh, nữ giới kinh nguyệt ra ít hoặc bế kinh, băng lậu v.v… rất dễ lẫn lộn, cho nên cần phân biệt. Chứng Phế Thận âm hư phần nhiều do Thận âm khuy tổn, âm tinh không dâng lên được hoặc là hư hoả hun đốt Phế, ho lâu ngày hại Phế gây nên. Lâm sàng thấy kiêm cả biểu hiện chứng trạng Phế âm hư như khái thấu không có đờm, ít đờm hoặc trong đờm có lẫn huyết, miệng ráo họng khô, khàn tiếng v.v… Còn chứng Can Thận âm hư phần nhiều do Thận âm bất túc không tư dưỡng được Can âm hoặc là Can âm bất túc đến nỗi Thận âm khuy tổn gây nên, người bệnh còn bị những chứng mắt nhìn lờ mờ hoặc quáng gà, gân mạch co rút, tê dại, co giật, móng tay chân khô ròn và đau sườn. Một chứng bộ vị mắc bệnh ở Phế Thận. Một chứng bộ vị mắc bệnh ở Can Thận, chẩn đoán phân biệt không khó.

– Chứng Thận tinh bất túc với chứng Can Thận âm hư: Thận chứa tinh, chủ về phát dục và sinh thực. Thận tinh bất túc chủ yếu là chỉ tinh của tiên thiên khuy tổn, ảnh hưởng tới sự sinh trưởng phát dục, đối với nam giới thì tinh ít không sinh dục được, đối với nữ giới thì kinh bế không thụ thai; đối với trẻ em thì phát dục chậm chạp, thân thể yếu ớt, trí khôn và động tác chậm chạp, xương mềm, thóp không kín, người lớn thì mau già, tóc rụng răng lung lay, hay quên, tinh thần hoảng hốt chân yếu vô lực, tinh thần chậm chạp, hành động thiếu nhanh nhẹn. Lâm sàng biểu hiện chỉ thấy âm tinh bất túc, không có triệu chứng hư nhiệt rõ rệt. Còn chứng Can Thận âm hư, không chỉ thấy xuất hiện tinh huyết khuy tổn như các chứng trạng răng lung lay, tóc rụng, lưng đùi mềm yếu và chóng quên, kém ngủ mà còn có cả các chứng trạng hư nhiệt như ngũ tâm phiền nhiệt, triều nhiệt mồ hôi trộm, miệng ráo họng khô hai gò má đỏ và chứng Can âm hư tổn như mắt nhìn lờ mờ, hoa mắt, gân mạch co rút và đau sườn v.v… rõ ràng là khác với biểu hiện lâm sàng của chứng Thận tinh bất túc đơn thuần.

Trích dẫn y văn

– Tuổi trẻ mà bị mất nhiều huyết, hoặc say sưa nhập phòng, làm khí kiệt hại Can, cho nên kinh nguyệt suy í hoặc không thấy (Phúc trung luận – Tố Vấn).

– Năm loại lao, sáu loại cực, bẩy loại thương; tích hư thành tổn, tích tổn thành thương hàng năm không khỏi gọi là Cửu hư, Can lao là do cố gắng mưu lự làm cho gân xương co cứng, quá lắm thì đầu mắt choáng váng. Thận lao thì lưng và xương đau, di tinh bạch trọc, quá lắm thì mặt nhờn, bẩn, đau cột sống (Chư hư – Y học nhập môn).

– Có 10 chứng Can hư; Đau ngực sườn là Can huyết hư; Chuyển cân thuộc huyết hư; Mắt không nhìn được xa là Can huyết hư và Thận thủy chân âm bất túc; Mắt lờ mờ thuộc Can huyết hư có nhiệt kiêm Thận thủy chân âm bất túc; Mắt có màng là Can nhiệt kiêm Thận thủy bất túc; Mất huyết quá nhiều, uốn ván thuộc Huyết hư có nhiệt; Bụng dưới đau lan toả tới bộ phận sinh dục, ấn vào thì đỡ đau, thuộc Quyết âm kinh huyết hư; Thiên đầu thống thuộc Huyết hư; tạng Can có nhiệt không chữa ngay, lâu ngày ắt hại mắt; Mắt choáng váng tối sầm, thuộc Huyết hư kiêm Thận thủy chân âm bất túc (Bản thảo kinh sơ, quyển 2).

– Lưng và cột sống mỏi đau liên miên lại thêm đùi gối mềm yếu là Thận hư… Thận hư đau lưng phần nhiều tại phòng dục. Nhưng xét thấy đã không có biểu tà lại không có thấp nhiệt, hoặc là tuổi cao suy yếu, hoặc tình chí phẫn uất, hoặc đi đứng gắng gượng, nằm ngồi khó khăn, hoặc mệt mỏi yếu sức, động đến mệt nhọc thì bệnh tăng, hoặc sắc mặt tối xạm mạch Hư Vi… đều là do Thận kinh bất túc (Yêu – tích – Thối – Túc thống – Trương thị y thông ).