Top 7 # Xem Nhiều Nhất Tư Vấn Bệnh Suy Giáp Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Mgwbeautypageant.com

Nhờ Chuyên Gia Tư Vấn: Bệnh Suy Giáp Có Nguy Hiểm Không?

Chào bác sĩ Hello Doctor, tôi tên là Ngọc. Thời gian gần đây tôi mới đi khám và phát hiện mình mắc bệnh suy giáp. Tôi rất lo lắng về bệnh tình của mình. Xin hỏi bác sĩ bệnh suy giáp có nguy hiểm không. Cảm ơn bác sĩ.

==

Tham vấn thông tin, tư vấn và hỗ trợ đặt lịch khám:

✍ Bác sĩ chuyên về Bướu Giáp Hello Doctor

Tình trạng suy giáp khá phổ biến, ước tính có hàng triệu người đang bị suy giáp mà chưa hề được chẩn đoán. Trên thực tế, có đến 10% phụ nữ có thể bị thiếu hụt hormone tuyến giáp ở mức độ nào đó.

Để hiểu rõ hơn về căn bệnh suy giáp, bạn Ngọc có thể xem thông tin tổng quan TẠI ĐÂY.

Bệnh suy giáp có nguy hiểm không?

Vì cơ thể cần một lượng hormone tuyến giáp nhất định để duy trì chuyển hóa trong cơ thể nên khi bị suy giáp tuyến yên sẽ tạo ra hormone kích thích tuyến giáp bổ sung (TSH) để tuyến giáp sản xuất nhiều hormone hơn đảm bảo nhu cầu của cơ thể. Và việc chịu kích thích liên tục của mức TSH cao này có thể khiến tuyến giáp bị to ra và hình thành bướu cổ. Nếu không được điều trị, các triệu chứng suy giáp thường sẽ tiến triển nặng hơn. Và đôi khi sẽ dẫn đến nhiều biến chứng có thể de dọa tính mạng.

HELLO DOCTOR- MANG SỨC KHOẺ ĐẾN CUỘC SỐNG BÁC SĨ TƯ VẤN QUA ĐIỆN THOẠI: 19001246 HỖ TRỢ TRÊN FACEBOOK: CLICK LINK

(Liên lạc qua điện thoại, trước khi đến trực tiếp cơ quan y tế, để tránh lây nhiễm Covid-19)

Những biến chứng của bệnh suy giáp bạn có thể gặp phải

– Dị tật bẩm sinh: Nếu bạn đang mang thai và bị rối loạn tuyến giáp không được điều trị, con bạn có thể có nguy cơ bị dị tật bẩm sinh cao hơn so với những đứa trẻ sinh ra từ những bà mẹ khỏe mạnh. Em bé sinh ra với những phụ nữ bị rối loạn tuyến giáp không được điều trị có thể có các vấn đề phát triển thể chất và tinh thần quan trọng vì hormone tuyến giáp rất quan trọng cho sự phát triển của não. May mắn thay, nếu những vấn đề này được giải quyết ngay sau khi sinh, đứa trẻ có thể phát triển khỏe mạnh. Xét nghiệm chức năng tuyến giáp là một phần của việc tầm soát sơ sinh, bao gồm một nhóm các xét nghiệm máu để loại trừ một số bệnh lý.

– Bướu cổ: Khi tuyến giáp của bạn cố gắng tạo ra một lượng hormone đầy đủ, sự kích thích quá mức có thể khiến tuyến giáp to ra, làm biến dạng cổ, còn được gọi là bướu cổ. Nếu bướu cổ phát triển quá lớn, có thể gây chèn ép các cơ quan lân cận như khí quản, thực quản và các dây thần kinh quặt ngược, gây ra các triệu chứng như nuốt khó, nghẹt thở, khàn giọng…

– Vấn đề tim mạch: Bệnh suy giáp thậm chí ở dạng nhẹ nhất có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của tim bạn. Tuyến giáp hoạt động kém có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh tim vì nó làm tăng mức cholesterol “xấu”. Quá nhiều cholesterol xấu có thể dẫn đến xơ vữa động mạch, xơ cứng động mạch, có thể làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ. Suy giáp cũng có thể dẫn đến sự tụ dịch xung quanh tim, tràn dịch màng ngoài tim, có thể khiến tim khó bơm máu hơn.

– Vô sinh: Nếu nồng độ hormone tuyến giáp quá thấp, nó có thể ảnh hưởng đến sự rụng trứng và giảm khả năng thụ thai của phụ nữ. Ngay cả khi được điều trị đúng cách đối với bệnh suy giáp, liệu pháp thay thế hormone tuyến giáp, không có gì đảm bảo rằng người phụ nữ sẽ có lại khả năng sinh sản.

– Phù niêm: Phù niêm là một triệu chứng của suy giáp nặng, xuất hiện khi bệnh tiến triển trong một thời gian dài mà không được điều trị. Phù niêm rất hiếm gặp vì rất khó để nhận ra và tìm kiếm điều trị. Tình trạng suy giáp này có thể đe dọa tính mạng. Phù niêm có thể làm chậm quá trình chuyển hóa, dẫn đến trạng thái hôn mê. Nếu bạn có các triệu chứng của bệnh phù niêm, chẳng hạn như mệt mỏi cực độ hoặc không chịu được lạnh, hãy đi điều trị ngay lập tức.

Tuy nhiên, với sự phát triển của y học ngày nay, bạn có thể hạn chế những ảnh hưởng xấu của bệnh thông qua việc điều trị bệnh. Vì vậy, chìa khóa để ngăn ngừa các biến chứng của bệnh suy giáp là nắm được các triệu chứng của bệnh và tìm kiếm sự chăm sóc y tế thích hợp. Bệnh suy giáp có thể kiểm soát được bằng cách điều trị đúng cách và nó không ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của bạn.

Một số thông tin có thể hữu ích cho bạn:

Tư Vấn Tại Quầy Thuốc

Nguồn: Alison Blenkinsopp, Paul Paxton and John Blenkinsopp (2014). Symptoms in the Pharmacy – A Guide to management of common illnesses 7th.

Cảm cúm thông thường bao gồm hỗn hợp nhiều triệu chứng của viêm đường hô hấp trên do virus. Thông thường chúng sẽ tự khỏi, nhưng một số người bệnh muốn dùng các thuốc không kê đơn (OTC) để giảm bớt các triệu chứng. Một số thành phần của những thuốc này có thể tương tác với các thuốc đang dùng, thậm chí có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng. Do đó, cần thận trọng xem xét tiền sử dùng thuốc và lựa chọn sản phẩm phù hợp cho người bệnh.

Sự quan trọng của các câu hỏi và câu trả lời Tuổi tác

Cần xác định tuổi tác của người bệnh, trẻ em hay người lớn. Điều này sẽ giúp dược dĩ nhanh chóng đưa ra quyết định về việc có cần điều trị bởi bác sĩ và các lựa chọn điều trị. Trẻ em thường nhạy cảm với hội chứng viêm nhiễm đường hô hấp trên hơn so với người lớn.

Diễn tiến bệnh

Người bệnh có thể mô tả những triệu chứng xuất hiện cấp tính hoặc triệu chứng đã tiến triển từ từ kéo dài nhiều giờ đồng hồ. Nếu trường hợp đầu thì có vẻ là cúm (flu), còn trường hợp sau thì có vẻ là cảm lạnh (cold). Những hướng dẫn chẩn đoán như vậy mang tính chất đại khái chung chung hơn là chẩn đoán khẳng định. Triệu chứng của cảm thông thường sẽ kéo dài từ 7 -14 ngày. Những triệu chứng như ho có thể kéo dài sau khi khỏi bệnh.

Triệu chứng Chảy mũi/ nghẹt mũi

Hầu hết người bệnh đều bị chảy nước mũi. Ban đầu, nước mũi chảy ra trong suốt, dần dần, các chất nhầy được sản xuất dày hơn và nhiều hơn. Sự dãn nở của các mạch máu khiến các niêm mạc mũi sưng lên gây tắc nghẽn mũi. Điều này làm hẹp đường mũi, đặc biệt khi tăng sản xuất các chất nhầy.

Đối với cảm hè, triệu chứng chủ yếu là nghẹt mũi, hắt hơi và chảy nước mắt do kích ứng. Những triệu chứng trên rất giống với viêm mũi dị ứng.

Hắt hơi thường xảy ra do đường mũi bị nghẹt và kích thích. Người bệnh có thể bị ho vì thanh quản bị kích thích (ho, ho khan) hoặc là kết quả của việc chất lỏng từ mũi xuống hầu họng, phế quản gây kích thích.

Đau/ đau đầu và nhức mỏi

Đau đầu cũng sẽ xảy ra do tình trạng viêm và kích thích miêm mạc mũi và xoang. Cơn đau ở vùng trán (đau ở vùng trên và dưới mắt ) có thề do viêm xoang. Người bị cúm thường hay bị đau nhức cơ và khớp hơn so với bị cảm thông thường.

Người bệnh thường than phiền vì cảm giác nóng nhưng thông thường, thân nhiệt thực sự của họ sẽ không cao. Cơn sốt thường là dấu hiệu của bệnh cúm hơn là cảm lạnh.

Người bệnh thường cảm thấy họng nóng, viêm trong suốt thời gian bị bệnh và đây có thể là triệu chứng đầu tiên của cơn cảm.

Đau tai là một biến chứng thường gặp của bệnh cảm cúm, đặc biệt là ở trẻ em. Khi chảy nước mũi, người bệnh có thể cảm thấy tai bị nghẽn. Điều này là do sự tắc nghẽn của ống Eustach, ống nối tai giữa với mặt sau của khoang mũi. Bình thường, tai giữa là một khoang chứa không khí. Tuy nhiên, nếu ống Eustach bị chặn, âm thanh nghe không còn rõ ràng khi nuốt, có thể khó chịu và điếc. Tình trạng này thường khỏi một cách tự nhiên, nhưng dùng thuốc thông mũi và thuốc dạng hít có thể có tác dụng (xem phần ‘Quản lý’ ở dưới). Đôi khi tình hình xấu đi khi tai giữa đầy chất lỏng. Đây là điều kiện lý tưởng gây nhiễm trùng thứ phát. Khi tình trạng này xảy ra, tai bị đau và gọi là viêm tai giữa cấp tính. Viêm tai giữa cấp tính là mộtnhiễm trùng thường gặp ở trẻ nhỏ. Các bằng chứng cho việc sử dụng kháng sinh là mâu thuẫn nhau, một số thử nghiệm cho thấy có lợi trong khi một số thử nghiệm khác lại cho thấy không có lợi ích gì từ việc dùng thuốc kháng sinh. Trong khoảng 80% trẻ em, viêm tai giữa cấp tính sẽ khỏi một cách tự nhiên trong khoảng 3 ngày mà không cần thuốc kháng sinh. Thuốc kháng sinh cũng đã được chứng minh là làm tăng nguy cơ nôn mửa, tiêu chảy và phát ban.

Tóm lại, dược sĩ có thể kiểm soát bước đầu của cơn đau tai. Cả paracetamol và ibuprofen đều có bằng chứng là phương pháp điều trị hiệu quả cho viêm tai giữa cấp tính. Tuy nhiên, nếu đau tai tồn tại hay là phối hợp với việc trẻ không khỏe (ví dụ sốt cao, bồn chồn hoặc bơ phờ, nôn), cần hướng dẫn đến trung tâm y tế địa phương.

Đau mặt / đau đầu vùng trán

Đau mặt hoặc đau đầu vùng trán có thể là biểu hiện của viêm xoang. Xoang là không gian thông khí bởi cấu trúc xương tiếp giáp với mũi (hàm trên xoang) và trên mắt (xoang trán). Khi lạnh, bề mặt lót của xoang bị viêm và sưng lên, sản xuất dịch. Dịch tiết này chảy vào khoang mũi. Nếu việc di chuyển dịch tiết này bị tắc nghẽn, chất lỏng tích tụ trong các xoang và có thể trở thành viêm nhiễm thứ cấp (do vi khuẩn). Nếu điều này xảy ra, vùng xoang sẽ bị đau dai dẳng. Các xoang hàm trên thường hay mắc hơn. Một tổng quan tài liệu hệ thống gần đây đã chỉ ra việc dùng kháng sinh kể cả khi viêm xoang đã kéo dài hơn 7 ngày chỉ mang lại lợi ích khiêm tốn. Tuy nhiên, kháng sinh nên được đề nghị dùng nếu các triệu chứng của viêm xoang: kéo dài quá 10 ngày; biểu hiện nghiêm trọng với sốt, đau mặt, chảy mũi quá 3-4 ngày; hay khi triệu chứng viêm xoang tiển triển sau một đợt cảm lạnh gần đây và cảm lạnh đã bắt đầu ổn đinh.

Cần phân biệt giữa cảm và cúm để đưa ra quyết định về việc điều trị. Bệnh nhân ở nhóm ‘nguy cơ‟ có thể xem xét điều trị kháng virus. Thường có khả năng là cúm nếu:

nhiệt độ 38◦C hoặc cao hơn (37,5◦C ở người già);

có tối thiểu một triệu chứng hô hấp như ho, đau họng, nghẹt mũi hoặc chảy mũi; hoặc là  tối thiểu một triệu chứng như đau đầu, mệt mỏi, đau cơ, ra mồ hôi / ớn lạnh, kiệt quệ.

Cúm thường bắt đầu đột ngột với mồ hôi và ớn lạnh, đau nhức cơ bắp và đau ở các chi, đau họng khô, ho và nhiệt độ cao. Có người mắc bệnh cúm bị nằm liệt giường và không thể hoạt động bình thường. Người bệnh thường hay mệt mỏi, suy yếu đi kèm với các triệu chứng. Ho khan thỉnh thoảng kéo dài.

Cúm thật sự không thường xuyên xyar ra so với các viêm nhiễm khác có triệu chứng giống cúm. Cúm thường gây cảm giác khó chịu hơn, mặc dù cả hai trường hợp thường tự khỏi mà không cần điều trị.

Cúm có thể trở nên phức tạp bởi nhiễm trùng phổi thứ phát (viêm phổi). Các biến chứng có thể xảy ra ở trẻ nhỏ, người già và những người từng mắc bệnh tim, bệnh lý hô hấp (bệnh hen suyễn hoặc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD)), bệnh thận, hệ miễn dịch yếu hoặc đái tháo đường. Chú ý các biến chứng có thể tiến triển bởi tình trạng ho nặng, sốt cao kéo dài, đau ngực kiểu viêm phế mạc hoặc mê sảng.

Cơn hen có thể xảy ra bởi viêm nhiễm virus đường hô hấp. Hầu hết người bị hen suyễn học cách bắt đầu dùng hoặc tăng liều thuốc của họ để ngăn chặn cơn hen xảy ra. Tuy nhiên, nếu biện pháp này không hiệu quả, cần điều trị chính thức.

Tiền sử bệnh

Những người có tiền sử viêm phế quản mãn tính, như COPD cần được khuyên đi khám bác sĩ. COPD cần được xem xét ở những bệnh nhân ở độ tuổi trên 35 có yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá, và những người có khó thở khi tập thể dục, ho lâu dài, khạc đàm thường xuyên, và thường xuyên viêm phế quản mùa lạnh hoặc thở khò khè. Những bệnh nhân này được khuyên tới bác sĩ nếu họ bị nhiễm lạnh hoặc cúm, vì nó thường gây ra một đợt cấp của viêm phế quản. Trong trường hợp này, bác sĩ có thể tăng liều lượng thuốc kháng cholinergic đường hít, chủ vận 2 và kê toa thuốc kháng sinh. Một số thuốc nên tránh dùng ở những người có bệnh tim, cao huyết áp và tiểu đường.

Thuốc điều trị

Dược sĩ cần biết chắc chắn về các thuốc mà người bệnh đang sử dụng. Điều cần nhớ là các tương tác thuốc có thể xảy ra với các thành phần thường được dùng trong các thuốc OTC.

Nếu các thuốc giảm đau hay làm giảm triệu chứng không có tác dụng hoặc các biện pháp điều trị thích hợp trong thời gian phù hợp không có hiệu quả, cần cân nhắc gặp bác sĩ. Trong hầu hết trường hợp cảm và cúm, điều trị bằng các thuốc OTC thường thích hợp.

Đau tai không đáp ứng với thuốc giảm đau

Trẻ con

Người lớn tuổi

Người mắc bệnh lý tim mạch, phổi như COPD, bệnh thận, đái tháo đường, bệnh lý miễn dịch.

Có sốt kéo dài và ho có đàm

Có mê sảng

Đau ngực kiể viêm phế mạc

Hen suyễn

Thời gian điều trị

Nếu cảm không cải thiện với khuyến cáo điều trị của dược sĩ sau 10-14 ngày, người bệnh cần khám bác sĩ.

Ủy ban Hội đồng Thuốc Anh (CHM) đưa ra khuyến nghị trong năm 2009 về việc sử dụng an toàn hơn các loại thuốc ho và cảm lạnh cho trẻ dưới 12 tuổi. Kết quả là, Cơ quan quản lý về thuốc và sản phẩm chăm sóc sức khỏe Anh (MHRA) khuyên rằng các thuốc OTC trị ho và cảm lạnh không nên dùng cho trẻ em dưới 6 tuổi.

Thuốc giảm ho: dextromethorphan và pholcodine

Thuốc long đờm: guaifenesin và ipecacuanha

Thuốc thông mũi: ephedrine, oxymetazolin, phenylephrine, pseudoephedrine và xylometazoline Thuốc kháng histamine: brompheniramine, Chlorpheniramine, diphenhydramine,doxylamine, promethazine và triprolidine

Trẻ em trong độ tuổi từ 6-12 vẫn có thể sử dụng các chế phẩm này, nhưng cần khuyên nên hạn chế điều trị trong 5 ngày hoặc ít hơn. MHRA lý luận rằng với trẻ em trên 6 tuổi, “nguy cơ từ các thuốc trên giảm vì: trẻ trên 6 tuổi bị ho và cảm lạnh ít thường xuyên hơn, do đó nhu cầu các loại thuốc ít thường xuyên hơn; Tuổi lớn và kích thước cơ thể tăng, trẻ dung nạp các loại thuốc tốt hơn nếu các loại thuốc này hiệu quả’.

Thuốc làm giảm sung huyết Thuốc cường giao cảm

Thuốc cường giao cảm (ví dụ pseudoephedrine) có thể có hiệu quả trong việc giảm nghẹt mũi. Thuốc làm giảm sung huyết mũi làm hây co thắt các mạch máu bị giãn ở niêm mạc mũi. Các niêm mạc mũi bị thu hẹp một cách hiệu quả, vì vậy các chất nhầy và sự lưu thông của không khí được cải thiện và làm giảm cảm giác nghẹt mũi. Những loại thuốc này có thể được uống hoặc dùng tại chỗ. Dạng viên nén, xirô để uống, hay như thuốc xịt mũi và nhỏ mũi đều có sẵn. Nếu các thuốc xịt mũi/nhỏ mũi được dùng, dược sĩ nên khuyên bệnh nhân không nên sử dụng các sản phẩm hơn 7 ngày. Hiện tượng “Sung huyết bật lại” (viêm mũi do thuốc) có thể xảy ra với thuốc cường giao cảm dùng tại chỗ mà không xảy ra với dạng đường uống. Các tác dụng chống sung huyết của các sản phẩm dùng tại chỗ có chứa oxymetazolin hoặc xylometazoline dài hơn (lên đến 6 h) so với một số thuốc khác như ephedrine.

Dược sĩ có thể đưa ra lời khuyên hữu ích về cách dùng đúng các thuốc nhỏ mũi và thuốc xịt.

Ephedrine và pseudoephedrine, khi uống, về mặt lý thuyết nó giữ cho bệnh nhân tỉnh táo vì tác động kích thích trên hệ thần kinh trung ương. Nói chung, ephedrine có nhiều khả năng tạo hiệu ứng này hơn pseudoephedrine. Một tổng quan hệ thống cho thấy nguy cơ mất ngủ của pseudoephedrin là nhỏ so với giả dược. Thuốc cường giao cảm có thể gây ra sự kích thích tim, tăng huyết áp và có thể ảnh hưởng đến việc kiểm soát bệnh đái tháo đường bởi vì tác động làm tăng nồng độ đường máu. Các thuốc này nên được dùng thận trọng ở người bệnh tiểu đường, những người có bệnh tim hoặc cao huyết áp và những người có cường giáp (theo BNF). Tim của người bị cường giáp có nhiều bất thường, do đó không nên để tim bị kích thích.

Thuốc cường giao cảm có nhiều khả năng gây ra những tác dụng không mong muốn khi dùng bằng đường uống và dường như không gây ra những tác dụng không mong muốn đó khi sử dụng tại chỗ. Thuốc nhỏ mũi và thuốc xịt có chứa hoạt chất cường giao cảm được khuyến khích cho người bệnh không phù hợp để dùng thuốc đường uống. Những bệnh nhân này có thể có lựa chọn khác là dùng thuốc nhỏ mũi hoặc thuốc xịt khí dung mũi chứa nước muối sinh lý.

Sự tương tác giữa thuốc cường giao cảm và thuốc ức chế monoamine oxidase (IMAO) có khả năng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; gây ra tăng huyết áp nghiêm trọng và có một số trường hợp tử vong đã xảy ra. Sự tương tác này có thể xảy ra trong vòng 2 tuần sau khi một bệnh nhân đã ngừng dùng thuốc IMAO, vì vậy các dược sĩ phải biết về các thuốc đã ngưng gần đây. Các thuốc cường giao cảm dùng tại chỗ cũng có thể gây ra tương tác với IMAO. Do đó nên tránh cả uống và dùng tại chỗ thuốc cường giao cảm ở người bệnh dùng thuốc IMAO.

Tương tác thuốc: Tránh dùng chung với

IMAO (ví dụ phenelzine)

Các chất ức chế thuận nghịch monoamine oxidase A (ví dụ moclobemide)  Chẹn beta

Thuốc chống trầm cảm ba vòng (ví dụ amitriptyline) – sự tương tác về mặt lý thuyết này dường như không là vấn đề trong thực tế lâm sàng. Hạn chế về việc bán pseudoephedrine và ephedrine

Để đối phó với những lo ngại về việc chiết xuất pseudoephedrin và ephedrin từ các sản phẩm OTC để sử dụng trong sản xuất methamphetamine (crystal meth), quy định hạn chế bán pseudoephedrine và ephedrine đã được ban hành vào năm 2007. Các thuốc có sẵn chỉ trong gói có kích thước nhỏ, và giới hạn một gói cho một khách hàng, và việc bán thuốc phải được thực hiện bởi dược sĩ.

Thuốc kháng histamine

Thuốc kháng histamin làm giảm một số triệu chứng của cảm lạnh về mặt lý thuyết như: chảy nước mũi và hắt hơi. Các hiệu ứng này là do tác động kháng cholinergic của thuốc kháng histamine. Các thuốc cũ (ví dụ chlorpheniramine, promethazine) có tác động kháng acetylcholin nhiều hơn so với các thuốc kháng histamin không gây ngủ (Ví dụ như loratadin, cetirizine, acrivastine). Thuốc kháng histamine không quá hữu hiệu để giảm nghẹt mũi. Một số hoạt chất (ví dụ diphenhydramine) cũng có thể bổ sung trong thuốc chữa cảm do tác động giảm ho hoặc gây ngủ (sản phẩm kết hợp dùng vào ban đêm). Bằng chứng cho thấy rằng việc thuốc kháng histamin đơn độc không có lợi ích trong điều trị cảm lạnh thông thường nhưng các thuốc này cung cấp các lợi ích hạn chế cho người lớn khi kết hợp với thuốc thông mũi, thuốc giảm đau và ức chế ho.

Tương tác thuốc: Các vấn đề trong việc sử dụng thuốc kháng histamin, đặc biệt là các thuốc cũ (ví dụ Chlorpheniramine), là thuốc có thể gây buồn ngủ. Rượu làm tăng tác động này, cũng như các loại thuốc như benzodiazepin hoặc phenothiazin có khả năng gây buồn ngủ hoặc ức chế thần kinh trung ương. Thuốc kháng histamin có tác dụng an thần, không nên đề nghị cho bất cứ ai đang lái xe, hoặc người đang làm những thao tác cần sự tập trung (ví dụ như vận hành các máy móc thiết bị tại nơi làm việc).

Do hoạt tính kháng acetylcholin, thuốc kháng histamin cũ có các tác dụng phụ như các loại thuốc kháng cholinergic (ví dụ: khô miệng, nhìn mờ, táo bón và bí tiểu). Những tác dụng này tăng nếu thuốc kháng histamin được dùng đồng thời với thuốc kháng cholinergic như hyoscine hoặc với các thuốc có tác dụng kháng cholinergic như thuốc chống trầm cảm ba vòng.

Thuốc kháng histamin nên tránh dùng ở người bệnh phì đại tuyến tiền liệt và glaucom góc đóng vì tác dụng phụ kháng cholinergic. Ở người bệnh glaucom góc đóng, thuốc có thể gây ra tăng nhãn áp.

Thuốc kháng cholinergic thỉnh thoảng gây bí tiểu cấp tính ở bệnh nhân, ví dụ, ở đàn ông có phì đại tuyến tiền liệt.

Tuy xác suất các tác dụng phụ nghiêm trọng như vậy là thấp, dược sĩ nên cẩn thận về các tác dụng phụ có thể có từ thuốc OTC.

Ở liều cao, thuốc kháng histamin gây kích thích hơn là gây trầm cảm ở thần kinh trung ương. Đã có báo cáo thường xuyên của các cơn kích thích được gây ra khi dùng liều rất cao của thuốc kháng histamine, do đó, cần tránh dùng thuốc kháng histamine ở người bệnh động kinh. Tuy nhiên, điều này chỉ mang tính lý thuyết.

Tương tác thuốc: Tác dụng phụ:

Glaucom góc đóng

Phì tuyến tiền liệt

Động kinh

Bệnh gan

Kẽm

Hai tổng quan hệ thống đã cho thấy bằng chứng hạn chế về việc dùng viên ngậm kẽm gluconate hay acetate trong việc làm giảm các triệu chứng kéo dài trong 7 ngày so với giả dược.

Echinacea

Một tổng quan hệ thống các thử nghiệm đã chỉ ra rằng một số chế phẩm chiết xuất từ thực vật họ Cúc (echinacea) có thể tốt hơn so với giả dược hoặc không dùng gì cả trong việc phòng ngừa và điều trị cảm lạnh. Tuy nhiên, do sự đa dạng trong các chế phẩm chứa echinacea, không có đủ bằng chứng để đề nghị một sản phẩm cụ thể. Echinacea đã được báo cáo gây phản ứng dị ứng và phát ban.

Vitamin C

Một tổng quan hệ thống phát hiện ra rằng liều cao vitamin C (trên 1 g / ngày) giúp dự phòng giảm

thời gian bị cảm lạnh khoảng 8%.

Thuốc ho Thuốc giảm đau Chế phẩm cho bệnh viêm họng Một số điểm quan trọng trong thực hành Thuốc dạng khí dung (dạng hít)

Chúng có thể là hữu ích trong việc làm giảm nghẹt mũi và làm thông đường thở, đặc biệt nếu có ho. Thuốc hít có thể được tẩm vào khăn tay, khăn tắm và gối. Chúng thường chứa các thành phần thơm như khuynh diệp. Những sản phẩm như vậy có thể hữu ích trong việc làm giảm một số triệu chứng, nhưng không hiệu quả như dang thuốc hít dạng hơi nước làm ẩm đường hô hấp.

Thuốc xịt mũi hoặc nhỏ giọt

Thuốc xịt mũi thích hợp cho người lớn và trẻ em trên 6 tuổi vì các giọt nhỏ trong sương phun tạo một diện tích bề mặt lớn. Thuốc nhỏ giọt dễ bị nuốt, làm tăng nguy cơ gây tác dụng toàn thân.

Đối với trẻ em dưới 6 tuổi, việc nhỏ giọt được ưa thích vì mũi trẻ không đủ rộng để cho phép sử dụng các thuốc xịt hiệu quả. Dùng dạng thuốc nhỏ giọt giành cho trẻ em nên ưu tiên sử dụng. Nước muối sinh lý dạng nhỏ mũi hoặc thuốc xịt là một lựa chọn hữu ích để cân nhắc trong trường hợp nghẹt mũi ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.

Phòng chống cúm

Dược sĩ nên khuyến khích những người trong nhóm nguy cơ tiêm phòng bệnh cúm mỗi năm một lần. Ở Anh, các dịch vụ y tế hiện nay cung cấp tiêm phòng cho tất cả các bệnh nhân trên 65 tuổi và những người có tuổi có bệnh về đường hô hấp mãn tính (bao gồm suyễn), bệnh tim mạn tính, suy thận mãn tính, đái tháo đường hoặc suy giảm miễn dịch do bệnh hoặc do điều trị. Dược sĩ cộng đồng đang ở trong một vị trí tốt để tra cứu và sử dụng hồ sơ sử dụng thuốc của người bệnh (PMRs) nhằm nhắc nhở người bệnh cần tiêm chủng vào mỗi mùa thu.

Một loại xịt mũi có chứa một loại gel nhớt được bán trên thị trường với khẳng định rằng nó ngăn chặn sự tiến triển những dấu hiệu đầu tiên của cảm lạnh. Khi các triệu chứng xuất hiện, dùng bồn lần một ngày. Cơ sở lý thuyết cho tác động của nó là các gel hơi axit (các virus thích một môi trường kiềm) và chất nhớt của nó giúp bẫy virus. Tuy nhiên không có thử nghiệm nào công bố hiệu quả của chúng.

Cần tăng ý thức của mọi người về việc phòng lây nhiễm virus cúm. Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước làm giảm sự lây truyền virus cảm và cúm. Dung dịch vệ sinh tay trở nên phổ biến bởi vì đôi khi không tiện dùng nước và xà phòng. Sự lây nhiễm virus cảm lạnh hoặc cảm cúm thường xảy ra trực tiếp từ người này sang người khác khi người bị nhiễm bệnh ho hoặc hắt hơi. Những giọt dịch tiết đường hô hấp có thể tiếp xúc với màng nhầy miệng và mũi người khác. Dung dịch vệ sinh tay có cồn được sử dụng rộng rãi trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe và góp phần làm giảm sự lây truyền các bệnh cảm lạnh và cúm. Virus cúm nhạy cảm với công thức có 60-95% ethanol. Lý do là các virus trong giọt nước có thể tồn tại trong 24-48 h trên các bề mặt cứng, không xốp, 8-12 h trên vải, giấy và các mô và 5 phút trên tay. Chạm tay vào bề mặt, các đối tượng nhiễm có thể truyền virus.

Bộ Y tế đã ban hành nhiều ấn phẩm chi tiết có cơ sở bằng chứng để đối phó với đại dịch, cụ thể là kiến nghị về việc tiêm chủng, sử dụng các loại thuốc kháng virus và kháng sinh, sử dụng các loại mặt nạ. Bất cứ ai mắc các triệu chứng của bệnh cúm sẽ được khuyên nên ở nhà. Các tư vấn khác có thể được tìm thấy tại http://www.dh.gov.uk

Thuốc kháng virus

Hiệu quả của thuốc chống virus trong một đại dịch không được biết đến cho đến khi nó được sử dụng trong một tình huống như vậy và chỉ có thể được dự đoán dựa trên kinh nghiệm trị cúm theo mùa và ở những người bị nhiễm cúm gia cầm. Người ta tin rằng chúng có khả năng làm giảm nguy cơ phát triển các biến chứng, giảm tỉ lệ tử vong và rút ngắn thời gian phục hồi sau nhiễm trùng. Có thể sử dụng thuốc kháng virus cho các thành viên không bị nhiễm bệnh của một hộ gia đình khi một thành viên khác có nhiễm trùng có thể làm giảm sự lây lan của đại dịch. Sự đề kháng đối với các thuốc kháng virus còn chưa rõ ràng trong đại dịch virus.

Thuốc kháng sinh

Một biến chứng nghiêm trọng của bệnh cúm viêm phổi và điều này có thể trực tiếp do virus cúm hoặc do vi khuẩn thứ cấp bội nhiễm. Trong trường hợp viêm phổi do virus, kháng sinh là không có giá trị mặc dù về mặt lâm sàng rất khó để chẩn đoán phân biệt giữa viêm phổi di virus và viêm phổi do vi khuẩn, và thuốc kháng sinh thường được sử dụng trong bệnh viện với những bệnh nghiêm trọng. Dịch cúm gia cầm thường phức tạp do viêm phổi do virus.

Hầu hết các bệnh nhiễm trùng không biến chứng trong cộng đồng không cần dùng thuốc kháng sinh. Khuyến khích dùng kháng sinh cho những người có nguy cơ, chẳng hạn như người đã từng hoặc đang bị COPD, suy yếu miễn dịch, đái tháo đường, bệnh lý tim hoặc bệnh phổi. Trong những trường hợp này, nếu không có cải thiện trong vòng 48 giờ từ lúc dùng thuốc kháng sinh, thì người bệnh nên đến trung tâm y tế.

Các triệu chứng cúm điển hình bao gồm ho, khó chịu vùng xương ức, thở khò khè và có đờm (các triệu chứng của viêm phế quản cấp tính), và không cần dùng kháng sinh ở người không thuốc nhóm nguy cơ. Tuy nhiên, nếu những triệu chứng xấu đi sốt, đau ngực kiểu viêm phế mạc hoặc khó thở kéo dài hoặc tái phát (định kỳ), sau đó viêm phổi. Trong trường hợp này, đi khám tại trung tâm y tế là cần thiết và việc điều trị bằng kháng sinh trong cộng đồng hoặc bệnh viện nên được tuân thủ.

CA LÂM SÀNG 1

Bà A., một khách hàng thường xuyên ở tuổi 60, tới quầy thuốc để tìm lời khuyên cho chồng bà. Ông bị cảm nghiêm trọng với các triệu chứng tồi tệ như nghẹt mũi và đau họng. Mặc dù ông cảm thấy cổ họng rất đau, nhưng sáng nay bà ấy thấy nó chỉ đỏ nhẹ. Chồng bà đã có những triệu chứng kể từ đêm qua và không sốt. Ông ấy không có đau tai nhưng có than phiền đau đầu. Khi dược sĩ hỏi bà ấy về những loại thuốc mà ông đang sử dụng, bà nói ông ấy đang dùng một vài thuốc cho bệnh tim. Bà ấy không thể nhớ tên của chúng. Dược sĩ kiểm tra hồ sơ sử dụng thuốc của người bệnh và thấy rằng ông ta đang dùng aspirin 75 mg, ramipril 5 mg, bisoprolol 10 mg và simvastatin 40 mg mỗi ngày. Bà A. hỏi dược sĩ có nên hay không cho chồng bà dùng vitamin vì bà đã nghe thấy điều này là tốt cho bệnh cảm. Bà tự hỏi liệu đây có phải giải pháp tốt hơn so với việc dùng nhiều thuốc.

Quan điểm của dược sĩ

Triệu chứng của bệnh nhân chỉ bị cảm lạnh hơn là bệnh cúm. Triệu chứng đáng quan tâm nhất là nghẹt mũi và viêm họng. Ông ấy đang dùng một số loại thuốc và tốt hơn là nên tránh các thuốc dùng đường uống. Bạn có thể đề nghị ông dùng thuốc giảm đau cho tình trạng viêm họng và một loại thuốc thông mũi tại chỗ hoặc loại hít để tránh nghẹt mũi. Có thể mất một tuần để chấm dứt các triệu chứng. Bạn cung cấp các lựa chọn thay thế cho bà A. để xem những gì bà ấy nghĩ rằng chồng bà có thể thích. Bạn giải thích rằng dùng vitamin C có thể làm giảm thời gian điều trị khoảng nửa ngày. Bạn chỉ cho bà ấy một số sản phẩm vitamin C và nói về chi phí của chúng. Bạn nên hỏi ông A. về việc tiêm ngừa cúm vì ông thuộc nhóm người bệnh nguy cơ cần tiêm chủng.

Quan điểm của bác sĩ

Những lời khuyên của dược sĩ là hợp lý. Một thuốc giảm đau đơn giản như paracetamol như vậy có thể giúp cả đau đầu và đau cổ họng. Sự phát triển của viêm xoang ở giai đoạn sớm trong một bệnh nhiễm trùng sẽ khó xảy ra nhưng sẽ khôn ngoan hơn khi hỏi liệu cảm cúm của ông ấy thường không có biến chứng phải không và hỏi kĩ hơn về vị trí đau đầu.

Quan điểm của bệnh nhân

Tôi đến nhà thuốc vì chúng tôi không muốn làm phiền các bác sĩ. Dược sĩ hỏi tôi về những triệu chứng mà chồng tôi cho là vấn đề lớn nhất và dược sĩ đưa ra những sản phẩm để lựa chọn sử dụng. Tôi muốn biết dược sĩ nghĩ gì về việc dùng vitamin C và dược sĩ nói với tôi là nó có thể rút ngắn thời gian bị cảm. Cuối cùng, tôi quyết định không mua Vitamin vì nó khá đắt so với các loại thuốc khác trong khi hiệu quả rút ngắn thời gian bị cảm của nó không đáng kể. Tôi nghĩ tôi sẽ cho chồng tôi dùng nước cam tươi để thay thế.

Quan điểm của dược sĩ

Tiền sử bệnh cho thấy bà bị cúm. Người phụ nữ này nên đến trung tâm y tế khám. Bà đã ốm 5 ngày và đã không thể rời giường suốt thời gian này. Bà ấy có nguy cơ cao bị cúm. Tôi sẽ đề nghị rằng ông A. nên gọi bác sĩ để khám cho bà ấy, nếu bà không đủ khỏe để đi. Đôi khi người ta không muốn gọi bác sĩ vì họ cảm thấy họ ‘làm phiền’ bác sĩ một cách không cần thiết. Sự hỗ trợ từ các dược sĩ thường hữu ích.

Quan điểm của bác sĩ

Nhiễm trùng này có khả năng là cúm. Người bệnh thuộc nhóm có nguy cơ cao phát triển các biến chứng (tuổi tác và bệnh tiểu đường), vì vậy việc đi khám bác sĩ là hợp lý. Hầu hết các trường hợp cúm thường hết trong vòng 7 ngày. Các biến chứng có thể bao gồm viêm tai giữa cấp, viêm xoang do vi khuẩn, viêm phổi vi khuẩn và, ít phổ biến, viêm phổi do virus và suy hô hấp.

Trên toàn thế giới có khoảng 3-5 triệu trường hợp nghiêm trọng của bệnh cúm trong mùa dịch với kết quả từ 250.000 đến 500.000 người chết mỗi năm, hầu hết các trường hợp tử vong xảy ra trên 65 tuổi (WHO, 2009, www.who.int).

Trong trường hợp này, các bác sĩ sẽ yêu cầu kiểm tra ngực của người bệnh về các dấu hiệu của một nhiễm trùng thứ cấp. Sốt dai dẳng dẫn tới sự phát triển của biến chứng. Bệnh nhân này ít có cơ sở để kê một thuốc kháng virus, ví dụ, zanamivir, vì nó chỉ có hiệu quả nếu bắt đầu trong vòng 2 ngày từ khi có triệu chứng. Một báo cáo chứng minh về hiệu quả của thuốc kháng virus trong việc giảm thời gian của các triệu chứng cúm khoảng 1 ngày nếu bắt đầu đủ sớm. Việc kiểm tra xem liệu chồng bà ấy có tiêm ngừa cúm hay không được khuyến khích. Thời gian ủ bệnh của cúm là 1-4 ngày và người lớn bị lây nhiễm từ ngày trước khi các triệu chứng bắt đầu cho đến 5 ngày sau khi khởi phát triệu chứng.

Suy Giáp Ở Trẻ, Vấn Đề Không Nên Bỏ Qua

Bệnh suy tuyến giáp ở trẻ nhỏ không phải là bệnh khó chữa. Tuy nhiên nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, trẻ có thể gặp phải những biến chứng nặng nề.

Nếu có con bị bệnh suy giáp thì bố mẹ cần làm những gì? Bài viết sau sẽ giúp các bậc phụ huynh giải đáp thắc mắc này.

Suy giáp là bệnh gì?

Suy giáp là một tình trạng hoạt động của tuyến giáp nằm dưới mức bình thường, không thể sản xuất đủ lượng hormone hoạt tính T3 và T4. Tình trạng này có thể xuất hiện lúc trẻ mới sinh hoặc xảy ra như là một bệnh lý mắc phải ở bất cứ thời điểm nào trong giai đoạn thơ ấu hoặc khi đã trưởng thành. Bệnh suy giáp là một tình trạng khá phổ biến với tỷ lệ khoảng 1/1.250 trẻ. Thông thường, tình trạng này cần phải điều trị suốt đời.

Đôi điều về tuyến giáp

Tuyến giáp là một cơ quan có hình cánh bướm nằm ở ngay chính giữa cổ, ở bên dưới sụn giáp, chịu trách nhiệm cho việc sản xuất ra hormone T3 và T4. Sự chế tiết hormone này được kiểm soát bởi tuyến yên trên não thông qua hormone kích thích tuyến giáp (TSH).

Hormone T3 và T4 có nhiều tác động quan trọng trong việc phát triển của trẻ khi còn nhỏ. Nó bao gồm cả việc duy trì nhịp độ phát triển và sự tạo lập xương được bình thường. Hormone tuyến giáp còn có vai trò quan trọng trong việc điều hòa chuyển hóa.

Điều gì gây ra tình trạng này?

Nguyên nhân của bệnh suy giáp là từ chính tuyến giáp hoặc từ trên tuyến yên. Tuyến giáp có thể bị tổn thương bởi sự tấn công của các kháng thể trực tiếp (tình trạng tự miễn dịch), tia xạ hoặc do phẫu thuật. Tuyến yên có thể bị tổn thương theo sau một tổn thương não nặng hoặc thứ phát do tia xạ.

Ngoài ra, một số loại thuốc và hóa chất có thể ảnh hưởng sự sản xuất hormone tuyến giáp. Ví dụ, quá nhiều hoặc quá ít i-ốt trong chế độ ăn có thể dẫn tới suy tuyến giáp.

Triệu chứng suy tuyến giáp ở trẻ nhỏ

Một số trẻ em có nguy cơ bị nhược giáp cao hơn khi mắc các hội chứng bẩm sinh. Đặc biệt là hội chứng Down, bị đái tháo đường loại 1 và những trẻ đã từng xạ trị. Các dấu hiệu và triệu chứng của suy tuyến giáp ở trẻ nhỏ gồm:

Các dấu hiệu sớm gồm mệt mỏi và bướu cổ. Ngoài ra, trẻ còn có thể gặp phải một số triệu chứng như thay đổi hành vi, kết quả học tập suy giảm và đau bụng không dứt. Các dấu hiệu trên sẽ càng dễ cho bố mẹ phỏng đoán bệnh suy giáp hơn nếu trong nhà có thành viên cũng mắc phải các vấn đề về tuyến giáp.

Chậm lớn cũng là dấu hiệu của bệnh suy tuyến giáp ở trẻ nhỏ. Tuy nhiên tình trạng này thường không nghiêm trọng ở trẻ được 1-2 tuổi. Nhưng khả năng phát triển cơ thể và khả năng sinh sản của trẻ cũng sẽ bị ảnh hưởng. Thêm vào đó, trẻ bị suy giáp sẽ bước vào giai đoạn dậy thì muộn hơn cũng như trông nhỏ hơn so với tuổi thật của mình.

Chẩn đoán tình trạng suy tuyến giáp ở trẻ nhỏ

Bác sĩ sẽ tiến hành các xét nghiệm máu đơn giản để chẩn đoán suy giáp. Bao gồm định lượng các loại hormone do tuyến giáp và tuyến yên sản xuất, thông thường là hormone T4 tự do (có độ chính xác cao hơn so với định lượng toàn bộ T4) và TSH. Các xét nghiệm này thường không đắt tiền và phổ biến rộng rãi ở các cơ sở y tế.

Kết quả chẩn đoán suy giáp khi hormone kích thích tuyến giáp từ tuyến yên tăng cao (TSH). Và nồng độ hormone T4 tự do (được tuyến giáp sản xuất) thấp. Nếu lượng TSH không đủ thì cả 2 loại hormone đo đều thấp. Giới hạn bình thường của hormone T4 tự do và TST khá khác nhau ở người lớn và trẻ em nên cần đưa ra kết quả chẩn đoán sau khi đã hội chẩn với bác sĩ nhi khoa về nội tiết.

Điều trị suy giáp ở trẻ nhỏ

Bác sĩ sẽ chỉ định sử dụng hormone tuyến giáp tổng hợp Levothyroxine. Loại hormone tổng hợp này được điều chế thành dạng viên uống mỗi ngày và thường thì phải uống suốt đời. Nó có rất ít tác dụng phụ và nếu có thì thường là do dùng quá liều lượng.

Chúng ta cần phải chờ ít nhất 6 – 8 tuần vì cơ thể phải có thời gian để điều chỉnh nồng độ của loại hormone mới. Sau đó, bác sĩ sẽ cho bé thực hiện lại các xét nghiệm máu. Nếu thuốc có hiệu quả, các xét nghiệm máu cho thấy nồng độ bình thường của TST và T4 tự do.

Bạn nên liên lạc với bác sĩ nếu con gặp phải các vấn đề như khó ngủ hoặc khó tập khi học. Đây có thể là các dấu hiệu cho thấy liều lượng hormone tuyến giáp điều trị hiện tại quá cao.

Liệu pháp hormone thay thế rất hiệu quả và an toàn khi điều trị tình trạng suy giáp. Bé chỉ cần uống thuốc đều đặn mỗi ngày một lần và đi khám bệnh thường xuyên thì có thể yên tâm sống một cuộc đời khỏe mạnh bình thường.

Biến chứng của bệnh suy giáp

Bệnh suy giáp, nếu không điều trị có thể dẫn đến vô vàn các vấn đề về sức khoẻ:

Sức khoẻ tâm thần: trầm cảm có thể xuất hiện sớm đối với người mắc suy giáp và trở nên nghiêm trọng hơn theo thời gian. Bệnh còn làm giảm tốc độ hoạt động của hệ thần kinh;

Vô sinh: lượng nội tiết tố thấp có thể ảnh hưởng đến quá trình rụng trứng từ đó làm giảm khả năng sinh sản. Một số nguyên nhân gây suy giáp ví dụ như rối loạn tự miễn cũng có khả năng làm năng nguy cơ này;

Dị tật bẩm sinh: trẻ sơ sinh mắc suy giáp nếu không được điều trị có thể có nguy cơ gặp các vấn đề về phát triển thể chất và tâm thần. Nhưng nếu phát hiện kịp trong những tháng đầu, cơ hội trẻ phát triển bình thường là rất lớn;

Bướu cổ: những kích thích liên tục để tuyến giáp tiết ra nhiều nội tiết tố hơn có thể làm cho cơ quan này trở nên lớn ra, gọi là bướu cổ. Viêm giáp Hashimoto là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bướu cổ. Mặc dù bệnh nhìn chung không nghiêm trọng, nhưng nó có thể ảnh hưởng đến ngoại hình hoặc khó khăn cho việc thở và nuốt thức ăn.

Các bài viết của Giapmockhang và Bachnienduong chỉ có tính chất tham khảo. Không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

GIÁP MỘC KHANG – Lựa chọn an toàn cho người bị bệnh u tuyến giáp

Hiện nay, để hỗ trợ điều trị bệnh u tuyến giáp, không ít người đã tin dùng những sản phẩm từ thiên nhiên giúp tăng cường sức khoẻ cho tuyến giáp, ngăn chặn biến chứng như Giáp Mộc Khang. Đây là một thực phẩm bảo vệ sức khoẻ có nguồn gốc từ thảo dược tự nhiên.

Giáp Mộc Khang chứa thành phần chính là côn bố (một loại tảo dẹt ở biển), có tác dụng điều trị chứng lao hạch, bướu cổ, thủy thũng, làm mềm, tiêu u cục hay là chứng đàm kết thành khối,… Ngoài ra, sản phẩm còn chứa côn bố, bạch thược, câu kỷ tử… Nó vừa tác động đến nguyên nhân gây bệnh, lại cải thiện các triệu chứng như lồi mắt, nhịp tim nhanh, lo lắng, thân nhiệt tăng,…

Người bị bệnh nên đi khám sức khoẻ định kỳ theo chỉ định. Nếu được điều trị đúng cách, người bệnh sẽ tránh được các biến chứng nguy hiểm. Người bệnh cũng nên chú ý đến chế độ ăn, tăng cường rau xanh, hoa quả. Hạn chế các thực phẩm chế biến sẵn, chiên rán, nhiều dầu mỡ. Tích cực tập thể dục hàng ngày để tăng cường sức khỏe.

(*) Sản phẩm này không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh

【Tư Vấn】Tiểu Đường Có Chữa Được Không?

Tiểu đường có chữa được không? Trong bệnh tiểu đường không có khái niệm “chữa khỏi”, và để kiểm soát lượng đường trong máu tốt, cần phải duy trì việc điều trị. Tuy nhiên, tùy thuộc vào triệu chứng bệnh, bệnh nhân có thể kiểm soát lượng đường trong máu bằng các “liệu pháp ăn uống” và “liệu pháp tập thể dục”. Bài viết này sẽ giải thích chi tiết về việc bệnh tiểu đường có chữa được không và điểm lưu ý phù hợp với bệnh tiểu đường.

1. Bệnh tiểu đường không phải là bệnh có thể chữa khỏi

Tiểu đường là căn bệnh mãn tính về tình trạng tăng đường huyết do không đủ insulin để làm giảm lượng đường trong máu, là căn bệnh không thể chữa khỏi hoàn toàn.

Tình trạng tăng đường huyết liên tục sẽ gây ra các biến chứng khác nhau, và tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và nhồi máu não do sự tiến triển xơ cứng động mạch.

Điều quan trọng là tiếp tục điều trị để giảm lượng đường trong máu, để ngăn ngừa biến chứng tiểu đường.

Ngay cả khi bị bệnh tiểu đường, nếu chỉ số đường huyết tương đối thấp trong giai đoạn đầu, bệnh nhân có thể kiểm soát lượng đường trong máu bằng liệu pháp ăn kiêng và liệu pháp tập thể dục.

Bệnh tiểu đường khó chữa khỏi

Tiểu đường có chữa được không? Bệnh tiểu đường không phải là bệnh sẽ chữa khỏi nếu bệnh nhân chỉ uống thuốc. Theo hướng dẫn của The Japan Diabetes Society, bệnh tiểu đường được mô tả là “Một nhóm các bệnh chuyển hóa có đặc trưng là tình trạng chỉ số đường huyết cao mãn tính do thiếu hụt insulin”. Khi tình trạng tăng lượng đường trong máu kéo dài, nó gây ra các biến chứng đe dọa tính mạng, do đó bệnh nhân phải duy trì việc “điều trị thích hợp” và “tự quản lý”. Vì vậy, mặc dù tình trạng bệnh tiểu đường có thể được cải thiện tốt hơn nhưng về cơ bản không thể chữa khỏi (hoàn toàn lành bệnh). Đặc biệt, trong bệnh tiểu đường loại 1, các tế bào của tuyến tụy tiết ra insulin vì một số lý do bị phá hủy và insulin gần như không được tiết ra nên bệnh nhân cần duy trì tiêm insulin để điều trị.

Bệnh tiểu đường khó chữa khỏi khi phát bệnh

Duy trì điều trị để ngăn ngừa biến chứng

Các biến chứng đặc biệt của bệnh tiểu đường bao gồm “bệnh thần kinh tiểu đường” trong đó các mạch máu ngoại biên như ở bàn tay và bàn chân bị tổn hại, gây ra rối loạn dây thần kinh vận động, dây thần kinh cảm giác, thần kinh tự trị, “bệnh võng mạc tiểu đường” trong đó các mạch mao mạch ở võng mạc bị tổn thương, gây nguy cơ đục thủy tinh thể và mù lòa, “bệnh thận do tiểu đường” trong đó chức năng thận giảm khi một mạch máu nhỏ gọi là cầu thận có vai trò là chức năng lọc của thận bị hư hỏng.

Khi bệnh tiểu đường tiến triển, thúc đẩy sự xơ cứng động mạch, không chỉ làm lưu thông máu kém đi, mà còn làm giảm miễn dịch và trong một số trường hợp, nó có thể phát bệnh “hoại tử”- tình trạng mà các mô bị thối và chết ở ngón chân. Ngoài ra do sự tiến triển của xơ cứng động mạch, nguy cơ khởi phát “bệnh tim thiếu máu cục bộ”, “bệnh mạch máu não”, “xơ cứng động mạch tắc nghẽn” sẽ tăng lên.

Mặc dù rất khó để chữa khỏi hoàn toàn bệnh tiểu đường, nhưng điều quan trọng là bệnh nhân phải tiếp tục duy trì việc điều trị như một mục tiêu điều trị để ngăn chặn sự khởi phát và tiến triển của những biến chứng này.

2. Bệnh tiểu đường có phải liên tục điều trị bằng thuốc không?

Trong tiểu đường tuýp 1, việc điều trị bằng insulin là liệu pháp không thể thiếu và không thể ngưng được vì tế bào tụy bị phá hủy và insulin không được tiết ra.

Đối với bệnh tiểu đường tuýp 2, có thể ngừng dùng thuốc nếu kiểm soát tốt lượng đường trong máu bằng cách thực hiện toàn diện việc “Cải thiện lối sống”

Điều trị bằng insulin là điều cần thiết cho bệnh tiểu đường loại 1

Bệnh tiểu đường loại 1 khác với bệnh tiểu đường loại 2 trong nguyên nhân và cách điều trị. Đối với bệnh tiểu đường tuýp 1, các tế bào beta trong tuyến tụy bị phá hủy vì một số lý do, và “insulin” không được tiết ra. “Insulin” có chức năng làm giảm lượng đường trong máu và cần thiết cho sự sống của cơ thể.

Khi insulin không được tiết ra, không thể giảm lượng đường trong máu và bệnh nhân sẽ ở trong tình trạng “tăng đường huyết”. Các triệu chứng như khát và suy nhược cơ thể xuất hiện và bệnh nhân có thể bị mất ý thức. Vì không thể chữa lành tế bào tụy bị phá hủy nên việc điều trị bằng insulin là cần thiết.

Đối với bệnh tiểu đường loại 2, có thể ngừng dùng thuốc nếu kiểm soát tốt lượng đường trong máu bằng việc cải thiện lối sống

Bệnh tiểu đường loại 2 là một trong những “Bệnh lối sống”, trong đó nguyên nhân chính phát bệnh là do rối loạn lối sống. Khi lượng insulin tiết ra giảm hoặc hiệu quả của insulin yếu đi, bệnh nhân sẽ trong trạng thái tăng đường huyết. Có ba liệu pháp điều trị tiểu đường loại 2: “Liệu pháp ăn uống”, “Liệu pháp tập thể dục” và ‘Điều trị bằng thuốc”, nhưng tùy thuộc vào tình trạng bệnh tiểu đường, có thể không cần điều trị bằng thuốc, mà có thể kiểm soát lượng đường trong máu bằng việc nỗ lực cải thiện lối sống như chế độ ăn uống và tập thể dục.

Ngoài ra, ngay cả khi đang điều trị bằng “thuốc uống” hoặc “tiêm insulin”, nếu bệnh nhân có thể cải thiện tốt lối sống và có thể kiểm soát lượng đường trong máu tốt, họ có thể giảm dần lượng thuốc điều trị. Trong hướng dẫn của The Japan Diabetes Society cũng ghi rằng “Bệnh nhân tiểu đường có thể ngừng điều trị thuốc bằng cách “giảm cân” hoặc “cải thiện lối sống.”

Tuy nhiên, vì mức đường huyết liên tục biến đổi, nếu chủ quan rằng có thể ngừng điều trị bằng thuốc, bệnh có thể nghiêm trọng trở lại. Nên duy trì cải thiện lối sống, định kỳ khám và tiếp nhận xét nghiệm tại các cơ sở y tế.

Điểm lưu ý phù hợp với bệnh tiểu đường

– Điều quan trọng là việc duy trì

Bệnh tiểu đường đòi hỏi phải điều trị lâu dài hoặc suốt đời.

Chính vì điều đó, việc duy trì “liệu pháp ăn uống” và “liệu pháp tập thể dục” trở thành điểm lưu ý phù hợp với bệnh tiểu đường. Nếu làm quá khả năng, bệnh nhân có thể từ bỏ giữa chừng. Điều quan trọng là tiếp tục duy trì, vì vậy hãy nỗ lực và chọn phương pháp, phương tiện dễ dàng cho bản thân thực hiện.

– Nỗ lực điều trị với mục tiêu

Mục đích điều trị bệnh tiểu đường là làm giảm lượng đường trong máu và ngăn ngừa các biến chứng đe dọa tính mạng. Để có thể tiếp tục điều trị hiệu quả, việc biết giá trị mục tiêu cũng là một điểm cần lưu ý. Theo hướng dẫn của The Japan Diabetes Society, giá trị mục tiêu cụ thể để phòng ngừa biến chứng là “HbA1c <7.0”, giá trị mục tiêu chỉ mức bình thường của lượng đường trong máu bằng việc cải thiện lối sống như chế độ ăn uống và tập thể dục là “HbA1c<6.0” (HbA1c là mức đường huyết trung bình trong khoảng 2 tháng).

Ngoài ra, điều cần lưu ý trong bệnh tiểu đường không phải chỉ là lượng đường trong máu. Giá trị mục tiêu cũng được đặt ra cho cân nặng và lượng cholesterol.

* Giá trị mục tiêu

HbA1c “nhỏ hơn 6.0”

Duy trì cân nặng tiêu chuẩn trên dưới “BMI22” (BMI là giá trị số biểu thị mức độ béo phì tính theo công thức [cân nặng (kg)] ÷ [bình phương chiều cao (m)])

Huyết áp dưới 130/80 mmHg (huyết áp khi ở nhà dưới 125/75 mmHg)

LDL cholesterol dưới 120 mg/dL (dưới 100 mg/dL khi có bệnh động mạch vành)

HDL cholesterol 40 mg/dL hoặc cao hơn

Chất béo trung tính (khi bụng đói vào buổi sáng sớm) dưới 150 mg/dL

Non-HDL cholesterol dưới 150 mg/dL (dưới 130 mg/dL khi có bệnh động mạch vành)

Các giá trị mục tiêu này chỉ là giá trị mục tiêu chung được mô tả trong hướng dẫn điều trị. Tùy thuộc vào tình trạng bệnh tiểu đường và việc có các bệnh khác không, giá trị mục tiêu có thể khác nhau. Kết hợp nhận tư vấn từ bác sĩ phụ trách, điều quan trọng là duy trì cải thiện lối sống và điều trị bằng thuốc với các mục tiêu phù hợp với bản thân.

3. Bệnh tiền tiểu đường có thể chữa khỏi

Bệnh tiền tiểu đường không phải là chẩn đoán về bệnh tiểu đường, nhưng là trình trạng mức đường huyết cao hơn mức bình thường.

Đối với bệnh tiền tiểu đường, mức đường huyết có thể được phục hồi trở lại trạng thái bình thường bằng cách nỗ lực “cải thiện lối sống” như chế độ ăn uống, thói quen tập thể dục, kiểm soát cân nặng từ giai đoạn đầu của bệnh.

Trước hết bệnh tiền tiểu đường là gì?

Bệnh tiểu đường khó chữa khỏi khi phát bệnh, nhưng nếu bạn phát hiện sớm bệnh trước khi trở thành bệnh tiểu đường và thực hiện các biện pháp điều trị, bệnh nhân có thể kiểm soát lượng đường trong máu về mức bình thường. Mặc dù không được chẩn đoán bệnh tiểu đường, trạng thái lượng đường trong máu cao hơn mức bình thường được gọi là “bệnh tiền tiểu đường”.

Tiêu chuẩn về lượng đường trong máu được chẩn đoán là “bệnh tiền tiểu đường” là mức đường huyết lúc đói là từ 110~126 mg/dL. Khi mức đường huyết lúc đói là 100~109 mg/dL, nó nằm trong phạm vi của các giá trị bình thường, nhưng vì bất thường thường được phát hiện khi “xét nghiệm OGTT” được giải thích sau, phạm vi này được phân biệt phân loại với “giá trị cao bình thường”.

Tiêu chuẩn mức đường huyết lúc đói của bệnh tiền tiểu đường:

Xét nghiệm bệnh tiểu đường bao gồm việc tiến hành lấy mẫu máu bệnh nhân “khi đói” rồi kiểm tra chỉ số của lượng đường trong máu, và lấy mẫu máu bệnh nhân “sau khi hấp thụ glucose” rồi kiểm tra sự thay đổi lượng đường trong máu.

Trong trường hợp bệnh tiền tiểu đường, tình trạng thiếu insulin sẽ xảy ra sau bữa ăn, lượng đường trong máu sẽ tăng lên, vì vậy việc chẩn đoán không chỉ lấy mẫu máu bệnh nhân khi đói, mà còn tiến hành xét nghiệm dung nạp glucose (OGTT).

“OGTT” là một xét nghiệm máu được tiến hành để kiểm tra những thay đổi về lượng đường trong máu sau bữa ăn. Khi lấy mẫu máu, bệnh nhân sẽ được hấp thụ glucose và sau đó tiến hành lấy mẫu máu nhiều lần sau mỗi 30 phút để theo dõi sự lên xuống của lượng đường trong máu.

Trường hợp “chỉ số đường huyết lúc đói từ 110~125 mg/dL” và “giá trị HbA1c là 6.0~6.4”, nên tiến hành xét nghiệm OGTT và ngay cả trường hợp “chỉ số đường huyết lúc đói từ 100~109 mg/dL”, “giá trị HbA1c là 5.6~5.9”, trường hợp gia đình có người mắc bệnh tiểu đường hoặc bản thân là người béo phì, The Japan Diabetes Society cũng khuyến cáo nên tiến hành xét nghiệm OGTT.

Với bệnh tiền tiểu đường, bệnh nhân có thể làm giảm lượng đường trong máu nếu bệnh nhân nỗ lực trong các hoạt động “cải thiện lối sống” như chế độ ăn uống, thói quen tập thể dục và quản lý cân nặng từ giai đoạn đầu. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân không quan tâm đến trạng thái bệnh tiền tiểu đường, nguy cơ bị tiểu đường tăng lên, “xơ cứng động mạch” cũng tiến triển.

Vì OGTT không được đo trong những lần khám sức khỏe, nếu bệnh nhân lo ngại về bệnh, hãy thử một lần đến khám và nhận tư vấn tại “khoa nội” và “khoa nội bệnh tiểu đường”.

Tiêu chuẩn đánh giá và phân loại đánh giá chỉ số đường huyết lúc đói và xét nghiệm dung nạp glucose qua đường uống (OGTT)

Để bệnh tiểu đường không thể khởi phát, điều quan trọng là phải lưu ý trong việc “quản lý cân nặng” “cải thiện thói quen ăn uống” “thói quen tập thể dục” “uống rượu có chừng mực” “không hút thuốc lá” “không để bị stress nhiều”.

Ví dụ: Trong “Cải thiện thói quen ăn uống”, không ăn quá nhiều hoặc ăn không điều độ. Việc ăn uống điều độ quá mức cũng dẫn đến thiếu hụt dinh dưỡng, do đó, việc thực hiện chế độ ăn uống cân bằng “carbohydrate”, “protein” và “chất béo” là một điểm cần chú ý. Những người thường ăn ở quán ăn và cửa hàng tiện lợi có xu hướng có lượng calo, chất béo và mỡ cao. Để có thể cân bằng tốt chế độ ăn uống, không chỉ kết thúc bữa ăn với 1 món mà nên bổ sung các món rau ăn kèm.

Tập thể dục vừa phải cũng có tác dụng làm giảm lượng đường trong máu, nó cũng giúp loại bỏ chứng béo phì. Ngay cả trong các hướng dẫn y tế cho bệnh tiểu đường, “tập aerobic” và “tập tăng cường” đã được chứng minh là có hiệu quả cải thiện bệnh tiểu đường. “Tập aerobic” là loại vận động như đi bộ, chạy bộ, đạp xe, bơi lội, đi xe đạp,… “Tập sức bền” là một bài tập lặp lại động tác tăng cường cơ bắp như cơ bụng, squat, chống đẩy, bài tập tạ. Điểm lưu ý là nên tập thể dục ít nhất 3 đến 5 lần một tuần, khoảng 20 đến 60 phút mỗi ngày với mức độ hợp lý.

Bài viết này đã giải thích về vấn đề tiểu đường có chữa được không cụ thể là bệnh tiểu đường là một căn bệnh khó chữa khỏi. Là căn bệnh gắn bó lâu dài với người bệnh, vì vậy bệnh nhân cần phải duy trì điều trị với nhận thức chính xác. Ngay cả khi bệnh nhân quản lý chế độ ăn và tập luyện quá mức, nếu không duy trì thì việc quản lý này không có hiệu quả. Tham khảo ý kiến với nhân viên y tế như bác sĩ phụ trách, y tá, chuyên viên dinh dưỡng và lên kế hoạch điều trị, hãy duy trì việc kiểm soát đường huyết theo phương pháp phù hợp với bản thân.

Bạn đang xem bài viết: tiểu đường có chữa được không tại chuyên mục kiểm soát tổng thể

https://kienthuctieuduong.vn/(Nguồn: Viện nghiên cứu thông tin y tế và sức khoẻ Nhật Bản)