Top 8 # Xem Nhiều Nhất Vì Sao Bệnh Sốt Rét Xảy Ra Ở Miền Núi Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Mgwbeautypageant.com

Lý Giải Vì Sao Bệnh Sốt Rét Hay Xảy Ra Ở Miền Núi

Vì sao bệnh sốt rét hay xảy ra ở miền núi? Sốt rét đe dọa tính mạng do ký sinh trùng Plasmodium gây ra. Khi bị muỗi Anopheles đốt, ký sinh trùng sẽ truyền vào máu để gây bệnh. Đối với những người bị sốt rét, bạn có thể bị sốt tái phát và theo chu kỳ, kéo dài 2 đến 3 ngày một lần.

Muỗi Anopheles thường sinh sản ở vùng nước ngọt. Đặc điểm của loại muỗi này là có bụng nhỏ, trên cánh có vảy trắng đen. Muỗi Anopheles thường hoạt động mạnh vào buổi tối sau khi mặt trời lặn và là loài muỗi gây bệnh sốt rét cho người.

Trả lời câu hỏi vì sao bệnh sốt rét thường hay xảy ra ở các vùng miền núi vì nó lây truyền qua muỗi Anopheles trung gian. Trong khi đó, lăng quăng hay bọ gậy của muỗi Anopheles thường phát triển ở những nơi có nước đọng, nước chảy chậm, ánh nắng, cây cối, rong rêu. Tạo điều kiện thích hợp cho loài muỗi này phát triển.

Một trong những loài muỗi thuộc giống Anopheles, virus Anopheles, có khả năng truyền bệnh sốt rét rất cao. Trong khi đó, đặc điểm của muỗi vằn chủ yếu sống ở các vùng núi, nơi nó cắn các loài linh trưởng và con người.

Vì sao bệnh sốt rét thường hay xảy ra ở miền núi?

Con người bị muỗi Anopheles đốt, ký sinh trùng sốt rét được truyền vào máu. Trong khi đó, các ký sinh trùng cư trú trong cơ thể sẽ di chuyển đến gan để phát triển. Và một số loại có thể ngủ yên trong một năm.

Thông thường, sau một vài ngày, ký sinh trùng trưởng thành xâm nhập vào máu và bắt đầu lây nhiễm các tế bào hồng cầu bình thường trong khoảng thời gian từ 48 đến 72 giờ và làm cho các tế bào bị nhiễm bệnh vỡ ra.

Tại sao bệnh sốt rét thường xảy ra ở miền núi vì miền núi là nơi cư trú của muỗi Anopheles. Sốt rét có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai nếu không có sự cảnh giác. Tuy nhiên, bệnh sốt rét có thể được kiểm soát được bằng cách giảm các yếu tố nguy cơ từ bên ngoài.

Nguy cơ lây truyền bệnh sốt rét ở miền núi

Người dân sống ở khu vực miền núi cần chủ động tìm các biện pháp phòng tránh. Do điều kiện, việc hiểu và tiếp cận các điều kiện y tế trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra, vấn đề môi trường, vệ sinh môi trường không đảm bảo cũng là điều kiện tạo cơ hội cho bệnh sốt rét lây lan nhanh ở các vùng miền núi.

Không chỉ vậy, theo phân tích bệnh sốt rét thường xảy ra ở các vùng núi. Các nhà khoa học phát hiện ra rằng khi nhiệt độ tăng, bệnh sốt rét ảnh hưởng đến những người ở độ cao lớn hơn so với khi nhiệt độ thấp hơn.

Sự thay đổi nhiệt độ cũng có thể ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh sốt rét ở những quần thể sống trên mực nước biển cao. Đây là nguyên nhân khiến người dân miền núi dễ mắc bệnh sốt rét.

Giải pháp để ngăn ngừa căn bệnh sốt rét ở miền núi

Người dân miền núi trình độ dân trí thấp, thiếu hiểu biết về bệnh sốt rét nên chưa được tiếp cận với các loại thuốc xịt muỗi, bọ gậy, đặc biệt là ở vùng núi, điều kiện cho muỗi vằn phát triển.

Cần áp dụng chặt chẽ các biện pháp sau đây:

Thường xuyên ngủ màn, kể cả ban ngày, màn cần được tẩm hóa chất chống muỗi. Đây là cách tốt nhất để ngăn ngừa bệnh sốt rét.

Sử dụng một số biện pháp chống muỗi như: Dùng màn, nhang muỗi, bôi kem chống muỗi. Khi làm việc ban đêm cần mặc quần áo dài tay để chống muỗi đốt.

Cần vệ sinh môi trường xung quanh, loại bỏ nơi trú ngụ của muỗi như phát quang bụi rậm, khơi thông cống rãnh. Sắp xếp các vật dụng trong nhà ngăn nắp, sạch sẽ, quần áo mặc phải gọn gàng. Nên treo hoặc treo quần áo trên tường để có chỗ cho muỗi.

Người dân đi làm ăn ở miền núi cần mang mùng đi ngủ, trước khi đi đến cơ sở y tế để được cấp thuốc phòng bệnh và khi từ miền núi trở về nên đến cơ sở y tế để được khám, kiểm tra. Nếu có sốt rét, các bác sĩ sẽ được điều trị kịp thời.

Run rẩy, sốt nóng, sau đó vã mồ hôi hoặc cảm thấy ớn lạnh là các triệu chứng của bệnh sốt rét đó. Lúc có triệu chứng như vậy bạn cần đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được chẩn đoán và điều trị theo liệu trình.

Những thông tin xoay quanh vấn đề: Vì sao bệnh sốt rét hay xảy ra ở miền núi mà mình vừa cung cấp trên mong là sẽ hữu ích với bạn đọc. Mọi người cần chú ý giữ gìn vệ sinh môi trường xung quanh để hạn chế sự lây lan của căn bệnh nguy hiểm này.

Sốt Rét Ở Trẻ Em

Sốt rét là bệnh truyền nhiễm do kí sinh trùng Plasmodium gây nên, lây truyền theo đường máu. Bệnh lưu hành địa phương và có thể gây thành dịch. Bệnh truyền từ người bệnh sang người lành do muỗi Anopheles. Ký sinh trùng sốt rét là một đơn bào, lớp Protozoa, họ Plasmodiidae, loại Plasmodium, có 4 loài gây bệnh ở người là P. falciparum, P. malariae, P. ovale, và P. Vivax. ở Việt Nam, chủ yếu là 2 loại P. Falciparum và P. Vivax. Bệnh có đặc điểm lâm sàng là sốt thành cơn có chu kỳ, có thể có biến chứng nặng gây tử vong.

Chẩn đoán bệnh phải dựa vào 3 yếu tố cơ bản là: yếu tố dịch tễ, lâm sàng, xét nghiệm tìm ký sinh trùng sốt rét.

Yếu tố dịch tễ:

Bệnh nhân đang sống trong vùng sốt rét hoặc đã mắc sốt rét trong vòng 6 tháng gần đây. Nếu bệnh nhân có mặt ở vùng sốt rét trong thời gian ngắn, cần quan tâm đến thời gian từ khi vào vùng sốt rét đến khi xuất hiện cơn sốt đầu tiên. Thời gian ủ bệnh của P. Falciparum là 9-14 ngày; P. Vivax là 12-17 ngày; P. Ovale là 16-18 ngày; và Malariae là 18-40 ngày; có thể kéo dài đến 6-12 tháng với P. Vivax.

Có 7 vùng sốt rét được phân bố ở Việt Nam như sau:

Vùng I (Đồng bằng và đô thị): không có sốt rét lưu hành

Vùng II (Vùng trung du, đồi thấp, có nước chảy): sốt rét lưu hành nhẹ

Vùng III (Núi đồi, rừng thưa, có nước chảy): sốt rét lưu hành vừa

Vùng IV (Núi rừng miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên): sốt rét lưu hành nặng.

Vùng V (Cao nguyên miền Bắc): sốt rét lưu hành nhẹ.

Vùng VII (ven biển nước lợ): sốt rét lưu hành mức độ khác nhau và không ổn định.

Lâm sàng:

Sốt : Với những đặc điểm riêng của sốt rét.

Giai đoạn rét run: Sau vài triệu chứng tiền triệu như ớn lạnh, rùng mình, trẻ bắt đầu rét run dữ dội, kéo dài từ 1-2 giờ, da tái nhợt, môi tím, chi lạnh, mạch nhanh, lách to ra, đái nhiều.

Giai đoạn nóng: thân nhiệt tăng vọt 39-40oC, bệnh nhân thấy nóng, kèm theo mặt đỏ, mắt xung huyết đỏ, nhức đầu dữ dội, đau cơ, đau lưng, đau vùng gan, lách, buồn nôn, nôn, tiểu ít, mạch nhanh, nhịp thở chúng tôi đoạn này kéo dài 2-4 giờ, sau đó sốt giảm dần. Trường hợp nặng, trẻ có thể bị tử vong do các biến chứng suy gan, suy thận, co giật, thiếu máu nặng…

Giai đoạn vã mồ hôi: sốt dần dần hạ, bệnh nhân ra nhiều mồ hôi, có cảm giác khát nước, sau đó cảm thấy dễ chịu dần, giảm đau đầu, vùng gan, lách bớt đau và trở lại trạng thái gần bình thường.

Cơn sốt có tính chất chu kỳ: P. ovale và P. Vivax: cách mỗi 48 giờ; P. Malariae: Cách mỗi 72 giờ; P. Falciparum: cơn hàng ngày

Trường hợp sơ nhiễm (nhiễm lần đầu tiên): sốt cao liên tục vài ngày đầu, sau đó sốt cơn.

Có nhiễm trùng khác kèm theo

Trẻ nhỏ: từ 6 tháng đến 4 tuổi. Trẻ thường không có giai đoạn rét run, hay có co giật khi sốt cao, rối loạn tiêu hóa (nôn, tiêu chảy, đau bụng, chướng bụng), thiếu máu nhanh, lách to nhanh, hạ đường huyết, tăng men gan, suy thận cấp

Thời kỳ sơ nhiễm, lách to mềm và đau. Trường hợp sốt rét tái phát nhiều năm, lách to và chắc.

Thiếu máu nhanh sau mỗi một cơn sốt, có thể thiếu máu nặng.

Vàng da khi có tan huyết dữ dội, có thể đái huyết sắc tố; có thể không vàng da

triệu chứng khác: Gan to, da xạm, chậm phát triển thể chất… 2.6.Các biểu hiện của sốt rét nặng (sốt rét ác tính):

Sốt rét thể não: Có hôn mê, rối loạn ý thức; co giật toàn thể tái diễn. Thiếu máu nặng, hạ đường huyết, toan chuyển hóa

Suy hô hấp, phù phổi cấp, ARDS, shock Xuất huyết, vàng da, đái huyết sắc tố

Xét nghiệm:

Các xét nghiệm tìm ký sinh trùng sốt rét để chẩn đoán xác định: bằng các kỹ thuật sau:

Trên tiêu bản giọt máu: lấy giọt máu đầu ngón tay và nhuộm soi giemsa với cả giọt dày và giọt dàn mỏng. Đây là kỹ thuật cơ bản để tìm và phân loại ký sinh trùng sốt rét, giúp chẩn đoán xác định bệnh sốt rét.

Kỹ thuật QBC (Quantiative Buffy Coat): quay li tâm để tập trung hồng cầu rồi soi dưới kính huỳnh Dùng trong trường hợp ký sinh trùng ít, nhưng không định lượng và định loại được.

Kỹ thuật phát hiện kháng thể: phương pháp huỳnh quang gián tiếp (IFAT), ngưng kết hồng cầu thụ động gián tiếp (IHA), miễn dịch hấp phụ gắn men (ELISA). Chỉ có tính chất hồi cứu vì kháng thể xuất hiện muộn

Kỹ thuật phát hiện kháng nguyên: Test phát hiện kháng nguyên Falciparum (Parasight F. test…), PCR. Tuy nhiên, kháng nguyên có thể tồn tại thời gian dài sau khi ký sinh trùng đã hết nên có giá trị xác định ký sinh trùng mà không giúp chẩn đoán bệnh.

Các xét nghiệm khác: Tùy theo tình trạng bệnh nhân

Công thức máu ngoại vi: hồng cầu giảm, bạch cầu bình thường hoặc giảm.

Chức năng gan, thận; huyết sắc tố niệu…

CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT:

Cần phải chẩn đoán phân biệt với một số bệnh nhiễm khuẩn khác trong trường hợp sốt rét lâm sàng, xét nghiệm tìm ký sinh trùng sốt rét âm tính.

Với trường hợp sốt rét sơ nhiễm: chẩn đoán phân biệt với các bệnh như thương hàn, sốt rickettsia, sốt Dengue…

Một số bệnh nhiễm khuẩn có sốt cơn, rét run giống sốt rét: Nhiễm khuẩn huyết, nhiễm trùng tiết niệu, viêm đường mật, túi mật, áp xe gan, áp xe phổi…

Nguyên tắc điều trị

Phát hiện và điều trị càng sớm càng tốt

Chọn đúng thuốc và đủ liều theo phác đồ.

Kết hợp điều trị cắt cơn với điều trị tiệt căn.

Điều trị toàn diện: điều trị đặc hiệu, điều trị triệu chứng, chăm sóc tăng cường, nâng đỡ thể trạng cho bệnh nhân

Các thuốc chống sốt rét:

Phân loại thuốc sốt rét:

Theo nguồn gốc:

Nguồn gốc thực vật: Các alcaloid của cây quinquina (Quinin, Quinidin…); dẫn xuất cây Quinbaosu: (Artemisinin, Artesunat, Artemether, Dihydroartemisinin…)

Nguồn gốc tổng hợp: 4 – Amino quinolein(Chloroquin, Amodiaquin…); Aryl-Amino-Alcool: (Mefloquin, Halofantrin…); Antifolic, antifolinic (các sulfamid,sulfon, pyrimethamin, proguanil); Kháng sinh (nhóm cyclin, macrolid, ..); 8-Amino quinolein (primaquin, Tafenoquin).

Theo tác dụng diệt ký sinh trùng:

Diệt thể vô tính trong hồng cầu, chủ yếu với Falciparum: gồm tất cả các nhóm thuốc, trừ nhóm 8-Amino quinolein.

Diệt thể hữu tính: 8-Amino quinolein: tác dụng với cả falciparum, P. Malariae và P. Vivax. 4- Amino quinolein: chỉ có tác dụng hạn chế với giao bào P. Malariae và Vivax.

Ức chế chu kỳ hữu tính trong muỗi: Antifolic, antifolinic.

Diệt thể tiền hồng cầu (trong tế bào gan): 8-Amino quinolein(tác dụng với Falciparum và P. Vivax); Antifolic, antifolinic: chỉ có tác dụng hạn chế với P. Falciparum.

Diệt thể không hoạt động trong gan của ovale, và P. Vivax: 8-Amino quinolein.

Chỉ định dùng thuốc sốt rét:

Bảng 1. Lựa chọn thuốc sốt rét: theo hướng dẫn chẩ n đoá n, điề u trị và dƣ̣ phò ng bệ nh số t ré t (ban hà nh theo quyế t đị nh số 3232/QĐ-BYT ngày 30/8/2013 của Bộ trưở ng Bộ Y tế ):

Chú thích: DHA(Dihydroartemisinin)-PPQ(Piperaquin phosphat): biệt dược là CV Artecan, Arterakine.

* Phác đồ thay thế khi thất bại với phác đồ 1, dùng 1 trong các phác đồ sau:

Artesunat tiêm

Artesunat tiêm + Doxycycline/ Tetracycline/Clindamycin DHA-piperaquin + Doxycycline/Mefloquine

Halofantrin

Không phối hợp artemisinin với quinin; artemisinin với Fansidar (sulfadoxine+pyrimethamine)

Trẻ em < 8 tuổi : không dùng Doxycycline, Tetracycline

<3 tuổi : không dùng Primaquin

<1 tuổi : không dùng Halofantrin

Liều điều trị: trẻ em không dùng vượt quá liều người lớn

DHA-piperaquin: Mỗi viên chứa 40mg dihydroartemisinin và 320 mg piperaquin phosphat

+ Trẻ em 3-6 tuổi:

Ngày 1: uống 1 viên chia 2 lần Ngày 2: uống 0,5 viên một lần Ngày 3: uống 0,5 viên một lần

+ Trẻ em 10-14 tuổi:

Ngày 1: uống 3 viên chia 2 lần Ngày 2: uống 1,5 viên một lần Ngày 3: uống 1,5 viên một lần Artemisinin viên 250mg:

+ Trẻ em 7-10 tuổi: Ngày 1: uống 2 viên chia 2 lần Ngày 2: uống 1 viên một lần Ngày 3: uống 1 viên một lần

Ngày 1: uống 4 viên chia 2 lần Ngày 2: uống 2 viên một lần Ngày 3: uống 2 viên một lần

Ngày đầu: 20mg/kg; ngày 2-5: 10mg/kg Artesunat viên 50mg:

Ngày đầu: 4mg/kg chia 3 lần, cách mỗi 8 giờ ( lần đầu 2mg/kg, các lần sau 1mg/kg), tối đa 4 viên/ngày. Ngày 2-7: 2mg/kg/ngày, tối đa 2 viên/ngày.

Artesunat tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp, lọ 60mg: dùng trong điều trị cấp cứu. Hòa thuốc trong lọ bằng 1 ml natri bicarbonat lắc kỹ, sau đó hòa 5 ml natriclorua 0,9% tiêm tĩnh mạch 3 phút, hoặc hòa 2 ml natriclorua 0,9% tiêm bắp.

Trẻ em < 7 tuổi: 1,5 mg/kg/ngày, 7 ngày

Chloroquine phosphate viên 250mg (trong đó có 150mg base)

Lần 1: 10 mg base/kg, tối đa 600 mg base, sau đó 5mg base/kg sau liều đầu 6, 24, 48 giờ. Tổng liều 25mg base/kg/đợt.

Primaquine phosphate viên 13.2mg = 7.5mg base: Liều 0,6 mg base / kg /ngày.

Để diệt giao bào P. Falciparum: uống 1 ngày cuối của đợt điều trị. Để điều trị P. vivax và P. ovale: dùng 14 ngày

Để phòng bệnh cho người khỏe: 0,5 mg base/kg/ngày, uống hàng ngày, bắt đầu 1-2 ngày trước khi vào vùng dịch và kéo dài tới 7 ngày sau khi rời vùng dịch.

Không dùng cho bệnh nhân thiếu G6PD, phụ nữ mang thai, trẻ em < 4 tuổi, có nguy cơ giảm bạch cầu hạt và tan máu.

Mefloquin: viên 250mg và 50 mg. Liều: 13,7mg base/kg (=15mg muối/kg) uống liều đầu, sau đó 9,1mg base/kg (=10mg muối/kg), uống cách 6- 12 giờ sau liều đầu, tổng liều 25 mg hợp chất/kg. không dùng cho người có tiền sử động kinh, tâm thần.

Quinidine gluconate: viên 300 mg base, ống 300 mg base, người lớn và trẻ em liều như nhau.

Tiêm: 6,25 mg base/ kg (=10 mg/ muối/kg) IV trong 1-2 giờ, sau đó truyền liên tục 24 giờ với liều 0,0125 mg base/kg/phút. Hoặc 15 mg base/kg IV trong 4 giờ, sau đó 7,5 mg base/kg IV trong 4 giờ, mỗi 8 giờ 1 lần, bắt đầu lúc 8 giờ sau liều đầu.

Khi lượng ký sinh trùng giảm <1%, bắt đầu cho uống, liều 8 mg base/kg/lần cách mỗi 8 giờ, trong 7 ngày.

Clindamicin: viên 150 mg. Trẻ em: 20 mg/kg/ngày chia 4 lần uống trong 7 ngày. Trường hợp nặng không uống được, dùng đường tiêm: 10 mg/kg liều đầu IV, sau đó 5 mg/kg/lần mỗi 8 giờ.

Người lớn 150-300mg mỗi 6 giờ. Dùng chung với quinin.

Điều trị triệu chứng, điều trị tăng cường, chăm sóc, nuôi dưỡng:

Chú ý điều trị sốt, bù dịch cho trẻ, tránh để xảy ra biến chứng do bệnh và do thuốc điều trị.

Theo dõi sát, phát hiện, điều trị cấp cứu, tăng cường các trường hợp nặng

Chú ý phát hiện các bệnh lý kèm theo để điều trị.

Theo dõi kết quả điều trị

Lấy tiêu bản máu vào ngày thứ 3, ngày thứ 8, và ngày thứ 15 tìm KST sốt rét.

Sau khi bệnh nhân ra viện, hẹn khám lại xét nghiệm vào ngày 21 và 28

.Điều trị dự phòng sốt rét:

Chỉ định cho những người chưa có miễn dịch đi vào vùng sốt rét

Chỉ dùng 3-6 tháng đầu kể từ khi vào vùng sốt rét.

Các thuốc dự phòng: dùng 1 trong số thuốc sau

+ Mefloquine: uống 5 mg /kg/tuần (người lớn 1 viên 250mg/tuần)

+ Doxycycline: viên 100 mg, ngày 1 viên.

+ Chloroquine: uống 5mg base/kg/tuần (người lớn 300mg base/ tuần)

+ Proguanil 3 mg/kg/ngày (người lớn 150-250 mg/ngày)

+ Primaquine: 0,5 mg base/kg/ngày, uống hàng ngày, bắt đầu 1-2 ngày trước khi vào vùng dịch và kéo dài tới 7 ngày sau khi rời vùng dịch

– Không điều trị dự phòng bằng các thuốc Artemisinin, quinin, Hadofantrin.

Diệt muỗi, tránh để muỗi đốt.

Bệnh Sốt Rét, Triệu Chứng Cách Phòng Bệnh Sốt Rét?

Mùa hè với khí hậu nóng bức thường là nguyên nhân của rất nhiều loại bệnh ngoài da, bệnh tay chân miệng và bệnh sốt rét cũng nằm trong số đó. Sốt rét là một bệnh truyền nhiễm do ký sinh trùng sốt rét Plasmodium hoặc do muỗi Anophen gây nên. Đặc điểm của muỗi Anophen là có thể hút máu từ người này rồi lây nhiễm qua người khác nên bệnh sốt rét rất nguy hiểm vì sức lây nhiễm và lây lan nhanh.

Triệu chứng của bệnh sốt rét?

Triệu chứng của bệnh sốt rét có thể nặng hoặc nhẹ tùy thuộc vào cơ địa và tình trạng miễn nhiễm của người bệnh và phân ra thành các thời kỳ

1) Bệnh sốt rét Thời kù ủ bệnh

– Thời gian này thông thường kéo dài từ 9 đến 30 ngày có thể thay đổi tùy theo mức độ nặng hay nhẹ và sự khác nhau của từng loại ký sinh sinh trùng sốt rét

2) Bệnh sốt rét Thời kỳ phát bệnh

– Giai đoạn đầu thời kỳ phát bệnh sốt rét, biểu hiện của người bệnh giai đoạn đoạn này là người bệnh bị đau mỏi các khớp, cơ, người có biểu hiện gai rét, tiếp theo người bệnh bị sốt cao có thể lên đến 39-40oC

– Giai đoạn 2 tiếp theo của thời kỳ phát bệnh sốt rét : thời gian kéo dài sau khoảng 2 tuần, người bệnh có biểu hiện bị sốt rét, sốt nóng diễn ra liên tục theo chu kỳ và thường sốt kéo dài từ 6-12h kèm theo triệu chứng người vã mồ hôi, suy nhược, rối loạn tiêu hóa, mệt mỏi…. Với những người bi sốt rét thường xuyên sẽ kèm theo các triệu chứng như thiếu máu mãn tính với các biểu hiện dễ nhìn thấy như chóng mặt, da xanh, suy kiệt

3) Bệnh sốt rét Thời kỳ lui bệnh

– Người bệnh không còn bất kỳ một biểu hiện nào của 2 thời kỳ trên và ký sinh trùng trong cơ thể người bệnh được điều trị triệt để. Với những người thường xuyên mắc bệnh sốt rét thì cần phải theo dõi người bệnh trong vài năm để điều trị cho đến khi không còn xuất hiện bất kỳ một ký sinh trùng nào trong cơ thể người bệnh nữa.

Cách phòng bệnh sốt rét?

– Phòng bệnh sốt rét bằng cách cần phát hiện nguồn bệnh kịp thời để có cách điều trị và quản lý hợp lý và nhanh nhất

– Diệt muỗi bằng hóa chất, phòng muỗi đốt bằng cách ngăn sự tiếp xúc giữa người và muỗi Anophen truyền bệnh sốt rét

– Với những người phải đi vào vùng có sốt rét cần cho người đi vào đó uống thuốc phòng chống sốt rét

– Ở những vùng bệnh đang có dịch sốt rét cần:

+ Luôn luôn nhớ phải bỏ màn trước khi ngủ và màn phải được phun hoặc tẩm hóa chất diệt muỗi

+ Phải mặc quần dài, áo dài tay khi đi làm và bôi thuốc xua muỗi lên những vùng da hở tránh để muỗi tiếp xúc vào da

Bệnh Sốt Rét Là Bệnh Truyền Nhiễm Do Kí Sinh Trùng Sốt Rét

Là 1 bệnh truyền nhiễm do kí sinh trùng sốt rét gây ra.

Có 4 loại gồm : plasmodium (P).faciparum, P.vivax, P.ovale và P.malariae.

Ở nước ta, nguyên nhân gây bệnh sốt rét chủ yếu là do P.faciparum và là loài thường gây sốt rét ác tính chủ yếu. Ngoài ra có thể kể đến tiếp là P.vivax (15 -20 % ) , P.malariae ( 1 -2 % ).

Dấu hiệu nhận biết sớm:

– Triệu chứng điển hình của cơn sốt rét là: rét run, sốt và vã mồ hôi.

– Triệu chứng không điển hình của cơn sốt rét: sốt không thành cơn (người bệnh cảm thấy ớn lạnh, gai rét) hoặc có thể sốt cao liên tục.

– Có sốt trong 3 ngày gần đây.

Đường lây bệnh:

Đường máu qua côn trùng trung gian là muỗi Anophen, truyền máu, từ mẹ sang con khi mang thai.

Vòng đời phát triển của kí sinh trùng sốt rét:

+ Giai đoạn tiền hồng cầu:

Khi muỗi đốt người, thoa trùng sẽ từ muỗi ( nằm ở tuyến nước bọt ) sang máu người và ở máu khoảng 30 phút, đến tế bào gan rồi phân chia thành tiểu thể hoa cúc hay còn gọi là kí sinh trùng non.

+ Giai đoạn hồng cầu:

Kí sinh trùng non vào máu, tới hồng cầu, tiếp tục phân chia thành thể phân liệt trong hồng cầu, chúng phá vỡ hồng cầu để ra ngoài và lại tiếp tục chui vào hồng cầu khác gây ra cơn sốt rét ác tính có chu kì.

Thời gian của giai đoạn hồng cầu là khác nhau giữa các loài P.falciparum, P.vivax là 48 h; P.malariae là 72 h.

+ Giai đoạn ngoại hồng cầu:

Đối với P.vivax và P.malariae, sau giai đoạn tiền hồng cầu, chúng có thể ngủ ở gan và gây sốt rét tái phát.

+ Thể giao tử:

Kí sinh trùng sốt rét ở lại huyết thanh phát triển thành giao tử. Khi muỗi hút máu người, giao tử vào muỗi rồi phát triển thành thoa trùng, cư trú ở tuyến nước bọt và tiếp tục lây truyền bệnh cho người khác.

Phân loại thuốc điều trị sốt rét:

– Nhóm thuốc cắt cơn sốt rét ( diệt kí sinh trùng sốt rét trong hồng cầu: fansidar, cloroquin, quinin,artemisunat,…

– Nhóm thuốc diệt thể ngủ ở gan: primaquin.

– Nhóm thuốc chống lan truyền: primaquin.

– Nhóm thuốc dự phòng sốt rét: fansidar,mefloquin,cloroquin,…