Top 8 # Xem Nhiều Nhất Xem Bệnh Bạch Hầu Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Mgwbeautypageant.com

Bệnh Bạch Hầu Có Nguy Hiểm Không? Cách Nhận Biết Bệnh Bạch Hầu

Bạch hầu là căn bệnh khá hiếm và có vắc-xin phòng bệnh. Tuy nhiên gần đây bệnh liên tiếp xuất hiện ở một số khu vực Đak Nông, Đak Lak và cả TP HCM khiến một trẻ em tử vong và nhiều người được cách ly ngay lập tức. Vậy bệnh bạch hầu là gì, có nguy hiểm không, cách nhận biết bệnh bạch hầu như thế nào?

Bệnh bạch hầu là gì? Lây lan như thế nào?

Bạch hầu là bệnh nhiễm trùng cấp tính do ngoại độc tố của vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây nên, bệnh đặc trưng bởi lớp màng nhầy của mũi cổ họng hoặc da.

Bệnh bạch hầu có thể được điều trị bằng thuốc. Tuy nhiên, trong giai đoạn tiến triển, bệnh bạch hầu có thể làm hỏng các cơ quan như tim, thận và hệ thần kinh, thậm chí có thể gây tử vong, đặc biệt là ở trẻ em.

Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), Bệnh bạch hầu lây truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc vật lý gần gũi, thường là qua các giọt văng ra khi nói chuyện, ho hoặc hắt hơi.

Một người cũng có thể mắc bệnh bạch hầu nếu tiếp xúc với một vật có vi khuẩn trên đó, có thể là nắm tay cửa, cốc, khăn giấy…

Cách nhận biết bệnh bạch hầu như thế nào?

Thời gian ủ bệnh khi một người nhiễm vi khuẩn lần đầu tiên là từ 2-5 ngày trước khi các dấu hiệu và triệu chứng sớm xuất hiện.

Cách nhận biết bệnh bạch hầu phổ biến nhất là nhiễm trùng đường hô hấp trên. Chúng tạo ra một lớp màng giả màu xám trên niêm mạc mũi, cổ họng hoặc xung quang khu vực amidam. Lớp màng nhầy này có thể có màu xanh lục hoặc hơi xanh, thậm chí là màu đen nếu bị chảy máu.

Một số cách nhận biết bệnh bạch hầu phổ biến khác mà bạn nên chú ý, bao gồm:

Sốt nhẹ, khó chịu và suy nhược cơ thể

Sưng các tuyến hoặc các mô mềm ở cổ

Chảy nước mũi

Tim đập nhanh

Cách nhận biết bệnh bạch hầu ban đầu ở trẻ em có nhiều khả năng có các đặc điểm sau:

Ớn lạnh, đau đầu và sốt

Buồn nôn và ói mửa

Sau khi các triệu chứng ban đầu xuất hiện, trong vòng 12 đến 24 giờ, độc tố của vi khuẩn gây bệnh sẽ bắt đầu hình thành và gây ra:

Nếu màng kéo dài đến thanh quản, người bệnh sẽ cảm thấy khàn giọng và ho dữ dội và có nguy cơ tắc nghẽn hoàn toàn đường thở. Màng cũng có thể kéo dài hơn nữa xuống hệ hô hấp về phía phổi.

Một người bị lây nhiễm bệnh bạch hầu bằng cách nào?

Do những giọt nước văng ra khi nói, ho, hắt hơi

Dịch tiết ra từ mũi và cổ họng, ví dụ như chất nhầy và nước bọt

Tổn thương da bị nhiễm bệnh

Những đồ vật như giường, ly cốc, quần áo người bệnh đã sử dụng

Bệnh bạch hầu có nguy hiểm không? Nguy hiểm như thế nào?

Bệnh bạch hầu rất nguy hiểm, có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng, thậm chí là tử vong nếu không chữa trị kịp thời.

Theo nghiên cứu, tỉ lệ tử vong ở bệnh bạch hầu là 5-10% các trường hợp, đặc biệt tỉ lệ tử vong cao hơn ở trẻ em.

Các biến chứng có thể xảy ra ở bệnh bạch hầu nếu chất độc xâm nhập vào máu và làm hỏng các mô quan trọng khác, bao gồm:

Viêm cơ tim hoặc tổn thương tim

Viêm cơ tim là tình trạng viêm của cơ tim, có thể dẫn đến suy tim, và mức độ nhiễm vi khuẩn càng lớn, độc tính đối với tim càng cao. Các vấn đề về tim thường xuất hiện 10-14 ngày sau khi bắt đầu nhiễm trùng

Viêm thần kinh, hoặc tổn thương thần kinh

Viêm dây thần kinh là tình trạng viêm mô thần kinh dẫn đến tổn thương dây thần kinh. Tình trạng này tương đối hiếm gặp và thường xuất hiện sau khi nhiễm trùng hô hấp nặng. Thông thường tình trạng sẽ phát triển như sau:

Trong tuần thứ 3, bệnh nhân có thể bị tê liệt vòm miệng

Sau tuần thứ 5, tê liệt cơ mắt, tay chân và cơ hoành

Tê liệt cơ hoành thường gây ra viêm phổi hoặc viêm hô hấp cấp

Bởi vì nguy hiểm nên việc tìm hiểu cách nhận biết bệnh bạch hầu rất quan trọng giúp bạn có thể kiểm soát được tình trạng sức khỏe của bản thân hoặc người thân và chữa trị kịp thời nếu không may mắc bệnh

Có phải chỉ trẻ em mới nên tiêm chủng ngừa bệnh?

Theo Tổ chức Y tế Thế giới mọi lứa tuổi đều nên tiêm ngừa vắc-xin. Đặc biệt ở trẻ em cần được tiêm đủ liều theo lịch y tế. Vắc-xin bạch hầu sẽ được tiêm cùng với vắc-xin uốn ván và ho gà.

Cục Y tế dự phòng khuyến cáo tất cả mọi người cần thực hiện các biện pháp như:

– Tiêm phòng vắc-xin phối hợp bệnh bạch hầu cho trẻ đủ mũi tiêm và theo đúng lịch y tế.

– Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước sạch, giữ vệ sinh thân thể, mũi, miệng hằng ngày, che miệng khi ho và hạn chế với những người có dấu hiệu bị bệnh.

– Đảm bảo chỗ ở của trẻ phải sạch sẽ, thông thoáng và có đủ ánh sáng.

– Khi có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh phải báo cáo với cơ sở y tế để được cách ly, chữa trị kịp thời

– Người dân trong ổ dịch cần thực hiện nghiêm chỉnh cách ly, uống thuốc phòng ngừa và tiêm phòng theo chỉ định của cơ quan y tế.

TLTK: https://www.medicalnewstoday.com/articles/159534

Chăm Sóc Trẻ Bệnh Bạch Hầu

Bạn biết gì về bệnh bạch hầu Là một bệnh nhiễm trùng nhiễm độc do trực khuẩn bạch hầu Corynebacterium diphtheria và dễ lây lan qua đường hô hấp hoặc gián tiếp tiếp xúc với vi khuẩn. Với các triệu chứng ban đầu như viêm thanh quản, nổi hạch dưới hàm, bệnh có thể biến chứng thành viêm phổi, suy tim, dẫn đến tử vong trong vòng 6-10 ngày.

Vi khuẩn bạch hầu lây truyền chủ yếu qua đường hô hấp nên tốc độ lây lan rất nhanh, có thể xâm nhập qua da tổn thương gây bạch hầu da. Sau khoảng 2 tuần nhiễm vi khuẩn, bệnh nhân đã có thể lây nhiễm cho người khác.

Đối tượng dễ mắc bệnh bạch hầu? Bệnh bạch hầu thường xuất hiện trong những tháng lạnh ở vùng ôn đới. Bệnh có tính mùa, thường tản phát, có thể phát triển thành dịch, nhất là trẻ dưới 15 tuổi chưa được gây miễn dịch đầy đủ dễ bị mắc bệnh.

Bệnh nhân mắc bạch hầu sau khi khỏi bệnh sẽ không bị mắc lại vì cơ thể được miễn dịch lâu dài.

Kháng thể miễn dịch của mẹ truyền sang con có tác dụng miễn dịch bảo vệ và thường sẽ hết tác dụng trước 6 tháng tuổi. (1)

Bệnh nhân có thể có dấu hiệu khó thở, khó nuốt. Bệnh có thể qua khỏi hoặc trở nên trầm trọng và tử vong trong vòng 6-10 ngày. Trường hợp bệnh nặng không có biểu hiện sốt cao nhưng có dấu hiệu sưng to cổ, khàn tiếng, khó thở, rối loạn nhịp tim, liệt.

Bạch hầu thanh quản là thể bệnh nặng ở trẻ em. Biểu hiện lâm sàng bị nhiễm ngoại độc tố

Bạch hầu tại chỗ là giả mạc và biểu hiện toàn thân là nhiễm độc thần kinh, làm tê liệt thần kinh sọ não, thần kinh vận động ngoại biên và thần kinh cảm giác và/hoặc viêm cơ tim. Bệnh có thể qua khỏi hoặc trở nên trầm trọng và tử vong trong vòng 6-10 ngày.

TRẦN HỒ TRUNG TÍN – PHÒNG ĐIỀU DƯỠNGBỆNH VIỆN NHI ĐỒNG THÀNH PHỐ

Bệnh Bạch Hầu Tái Bùng Phát

Thời gian vừa qua, Việt Nam đã xuất hiện một số ổ dịch bạch hầu xảy ra ở hầu hết các tỉnh Tây Nguyên (Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum) và TP. Hồ Chí Minh, đến nay đã có trên 60 ca bệnh, tăng gấp 3 lần hàng năm, trong đó có 3 bệnh nhân tử vong. Bệnh bạch hầu chưa được loại trừ ở nước ta, do đó mọi người vẫn có thể mắc bệnh nếu chưa tiêm vắc xin phòng bệnh đầy đủ. Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 17/2019/TT-BYT về việc hướng dẫn giám sát đối với 9 loại bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, trong đó có căn bệnh bạch hầu.

Bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc cấp tính do vi khuẩn bạch hầu gây nên. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu có tên khoa học là Corynebacterium diphtheria gây ra.

Bệnh bạch hầu lây truyền dễ dàng qua đường hô hấp hoặc qua tiếp xúc trực tiếp với các dịch tiết từ niêm mạc mũi họng của bệnh nhân hoặc người lành mang trùng khi ho, hắt hơi, đặc biệt trong khu vực dân cư đông đúc hoặc nơi có điều kiện vệ sinh không đảm bảo. Bệnh hay gặp ở tuổi thiếu nhi, đặc biệt là trẻ từ 1-7 tuổi. Tuy nhiên, người lớn vẫn có thể mắc bệnh.

Việc điều trị bệnh không khó nếu được phát hiện sớm và xử lý kịp thời, đúng phác đồ, đúng thuốc. Nếu chủ quan, không điều trị, điều trị muộn thì bệnh trở thành cấp tính, tỉ lệ tử vong tương đối cao (5% đến 10%). Nếu người bệnh mắc bạch hầu thể tối cấp thì có thể tử vong trong vòng 24 – 48 tiếng.

Tác nhân bệnh bạch hầu là vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae.Triệu chứng bệnh bạch hầuThường bắt đầu từ hai đến năm ngày sau khi bị nhiễm bệnh, gồm:

Bệnh thường khởi đầu như một đợt cảm lạnh thông thường, viêm họng, viêm amidan, hay viêm thanh quản, và có thể bạn sẽ thấy lạ là bệnh này cũng có thể biểu hiện như một bệnh nhiễm trùng da.

Ca bệnh lâm sàng: Đối với trẻ em, trẻ sẽ bị viêm họng, mũi, thanh quản. Họng đỏ, nuốt đau. Da xanh, mệt, nổi hạch ở dưới hàm làm sưng tấy vùng cổ. Khi khám thấy có giả mạc. Giả mạc bạch hầu thường trắng ngà hoặc màu xám dính chặt vào xung quanh tổ chức viêm, nếu bóc ra sẽ bị chảy máu. Ca bệnh xác định chẩn đoán nhờ Phân lập vi khuẩn bạch hầu dương tính từ mẫu bệnh phẩm lâm sàng lấy từ mô bệnh. Bạch hầu thanh quản là thể bệnh nặng ở trẻ em. Biểu hiện lâm sàng bị nhiễm ngoại độc tố bạch hầu tại chỗ là giả mạc và biểu hiện toàn thân là nhiễm độc thần kinh, làm tê liệt thần kinh sọ não, thần kinh vận động ngoại biên và thần kinh cảm giác, viêm cơ tim.

Người mắc bệnh bạch hầu thường có tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc nặng. Độc tố bạch hầu gây liệt cơ, viêm cơ tim, dẫn đến tử vong trong vòng 6 ngày. Tuy nhiên, có người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu nhưng chỉ có các triệu chứng nhẹ hoặc không có dấu hiệu rõ ràng. Có loại vi khuẩn bạch hầu gây bệnh trên da ( cutaneous diphtheria) với triệu chứng đau, đỏ và sưng, loét bao phủ bởi một màng màu xám ở vùng hầu cũng có thể phát triển trong bệnh bạch hầu trên da.

Khi có các biểu hiện bệnh nêu trên thì đến ngay cơ sở y tế để khám, xét nghiệm và điều trị. Đối với trẻ em, nếu không chắc chắn trẻ đã được tiêm phòng bệnh bạch hầu hay chưa, thì cũng nên đưa con đến cơ sở y tế để khám chữa bệnh, đồng thời kiểm tra lại vấn đề tiêm chủng của trẻ.

Biến chứng của bạch hầuNếu không được điều trị, bệnh bạch hầu có thể dẫn đến:

Cản trở hô hấp: Vi khuẩn gây bệnh bạch hầu có thể tiết độc tố và độc tố này gây tổn thương mô ở khu vực nhiễm trùng ngay, thường là mũi và cổ họng. Tại vị trí đó, nhiễm trùng tạo ra một màng cứng màu xám gồm các tế bào chết, vi khuẩn và các chất khác, màng này có thể cản trở hô hấp.

Đau tim: Độc tố bạch hầu có thể lây lan qua dòng máu và làm tổn thương các mô khác trong cơ thể, chẳng hạn như cơ tim, gây ra các biến chứng như viêm cơ tim. Tổn thương tim do viêm cơ tim có thể nhẹ, biểu hiện là những bất thường nhỏ trên điện tâm đồ hoặc nghiêm trọng dẫn đến suy tim sung huyết và đột tử.

Tổn thương thần kinh: Độc tố cũng có thể gây tổn thương thần kinh, điển hình là dây thần kinh ở cổ họng gây khó nuốt, nếu ở cánh tay và chân cũng có thể bị viêm, gây yếu cơ. Nếu độc tố của vi khuẩn bạch hầu làm tổn thương các dây thần kinh kiểm soát các cơ hô hấp, các cơ này có thể bị tê liệt.

Về điều trị: Hầu hết những người mắc bệnh bạch hầu đều sống sót sau những biến chứng, nhưng quá trình phục hồi thường chậm.

Đường lây truyền bệnh Bạch hầuThông thường vi khuẩn bạch hầu nhân lên trên hoặc gần bề mặt của màng nhầy của cổ họng, vi khuẩn bạch hầu lây lan qua ba con đường:

Qua giọt nước trong không khí: Khi một người bị nhiễm bệnh hắt hơi hoặc ho sẽ bắn ra một giọt nước có chứa mầm bệnh, những người ở gần đó có thể hít phải vi khuẩn bạch hầu. Bạch hầu lây lan nhanh chóng theo cách này, đặc biệt ở những nơi đông người.

Qua vật dụng cá nhân chứa mầm bệnh: Một số trường hợp mắc bệnh bạch hầu từ việc chưa làm sạch các vật dụng mà người nhiễm bệnh đã sử dụng từ cốc uống nước chưa rửa của người bị nhiễm bệnh hoặc tiếp xúc với các giấy ăn mà người bệnh đã sử dụng…

Qua đồ gia dụng bị ô nhiễm: Một số trường hợp hiếm hơn khi bị lây nhiễm bệnh bạch hầu thông qua các vật dụng dùng chung trong gia đình, chẳng hạn như khăn hoặc đồ chơi.

Người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu nhưng chưa được điều trị có thể lây nhiễm cho những người khỏe mạnh trong vòng sáu tuần.

Đối tượng nguy cơ bệnh bạch hầu: Trẻ em và người lớn không được tiêm vacxin bạch hầu; Những người sống trong điều kiện đông đúc hoặc mất vệ sinh; Người đến một khu vực đang có dịch bệnh bệnh bạch hầu.

Các biện pháp điều trị bệnh bạch hầu: Sự dụng các thuốc kháng độc tố, kháng sinh, liệu pháp oxy và hỗ trợ thở khác; Điều trị hỗ trợ nếu bị sốt cao, khó nuốt…; Theo dõi tình trạng bệnh nhân, đặc biệt là tình trạng hô hấp.

Phòng ngừa bệnh bạch hầuTạm thời đối với vùng xảy ra dịch:Rà soát lại kết quả tiêm phòng bệnh bạch hầu tại địa phương, tiêm bổ sung cho tất cả trường hợp chưa tiêm phòng đầy đủ. Phát hiện sớm các trường hợp nghi ngờ (tại cơ sở y tế nhà nước và tư nhân), truyền thông giáo dục sức khỏe đến toàn dân, yêu cầu các hộ gia đình chủ động khai báo khi trong nhà có người có biểu hiện đầu tiên của bệnh, đồng thời đến ngay cơ sở y tế để khám, xét nghiệm và điều trị.Giải pháp lâu dài:

– Vắc-xin bạch hầu thường được kết hợp với vắc-xin uốn ván và ho gà. Vắc-xin ba trong một được gọi là vắc-xin bạch hầu, uốn ván và ho gà. Phiên bản mới nhất của vắc-xin này được gọi là vắc-xin DTaP cho trẻ em và vắc-xin Tdap cho thanh thiếu niên và người lớn.

– Vắc-xin bạch hầu, uốn ván và ho gà là một trong những loại vắc-xin được các bác sĩ tại Hoa Kỳ khuyên dùng trong thời kỳ sơ sinh. Vắc-xin thường được tiêm ở cánh tay hoặc đùi khi trẻ ở 5 độ tuổi: 2 tháng; 4 tháng; 6 tháng; 15 đến 18 tháng; 4 đến 6 tuổi.

Tiêm nhắc lại: Sau khi đã hoàn thành 5 mũi trên ở thời thơ ấu, người khỏe mạnh cũng cần tiêm nhắc lại vắc-xin bạch hầu để giúp duy trì khả năng miễn dịch. Đó là bởi vì khả năng miễn dịch đối với bệnh bạch hầu giảm dần theo thời gian. Trẻ em được tiêm chủng đầy đủ theo khuyến cáo trước 7 tuổi thì nên được tiêm mũi đầu tiên nhắc lại vào khoảng từ 11 đến 12 tuổi. Lần tiêm nhắc tiếp theo được khuyến nghị 10 năm sau, sau đó lặp lại sau khoảng thời gian 10 năm. Tiêm nhắc lại đặc biệt quan trọng nếu người khỏe đi đến các khu vực thường gặp bệnh bạch hầu. Vắc xin bạch hầu nhắc lại được kết hợp với vắc-xin uốn ván nhắc lại (Td). Vắc-xin kết hợp này được tiêm bằng cách tiêm ở cánh tay hoặc đùi.

Phòng khám chuyên khoa ký sinh trùng

Bạch Hầu: Hình Ảnh, Triệu Chứng, Phòng Ngừa Bệnh Bạch Hầu Ở Trẻ Em Và Người Lớn

Ngày nay, một căn bệnh như bạch hầu ngày càng trở nên phổ biến. Điều này là do thực tế rằng tiêm chủng cho dân số thông qua tiêm chủng bắt buộc là thấp do sự từ chối thường xuyên của các bà mẹ trẻ. Bởi vì điều này, mọi người cần phải biết các triệu chứng của bệnh bạch hầu để kịp thời tham khảo ý kiến ​​bác sĩ và nhận được điều trị thích hợp.

Bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em và người trẻ tuổi. Không cung cấp chăm sóc y tế kịp thời có thể gây tử vong, chủ yếu là do nghẹt thở của một người bởi các bộ phim hình thành trong cổ họng.

Một căn bệnh như bạch hầu đã được nhân loại biết đến từ thời cổ đại. Theo các bằng chứng lịch sử còn sót lại, các nhà khoa học sống trong thời kỳ cổ đại, đã mô tả phòng khám bệnh lý này một cách chi tiết. Trong số các bác sĩ nghiên cứu bệnh bạch hầu, một trong những nơi chính bị Hippocrates và Galen chiếm đóng. Tuy nhiên, tên bệnh học này của bệnh không nhận được ngay lập tức. Trong số các từ đồng nghĩa thú vị của ông, hiện chỉ có ý nghĩa lịch sử, thú vị nhất là “thòng lọng treo cổ”. Tên hiện tại của căn bệnh này chỉ được lấy từ thế kỷ 19, khi các nhà khoa học Pháp cho rằng nghẹt thở bởi phim là nguyên nhân chính gây tử vong ở bệnh bạch hầu (từ tiếng Hy Lạp là Dip diptherther – một màng, phim).

Nguyên nhân gây bệnh bạch hầu

Tác nhân gây bệnh bạch hầu là một loại vi khuẩn thuộc nhóm vi khuẩn corynebacteria là vi sinh vật gram dương. Vi khuẩn này lần đầu tiên được phát hiện và mô tả trong các chế phẩm được làm từ phim bạch hầu năm 1883. Tuy nhiên, người tiên phong của loại vi khuẩn này là Friedrich Löffler, người đã quản lý để nuôi cấy vi khuẩn này trong phòng thí nghiệm. Một ngày sau đó, hai nhà vi trùng học nổi tiếng A. Yersen và E. Roux đã xác định được độc tố bạch hầu, khiến việc tiêm phòng trở nên khả thi.

Tác nhân gây bệnh bạch hầu có dạng “quả tạ” và trong quá trình chuẩn bị được sắp xếp theo cặp dưới dạng chữ V. Corinebacterium không tạo thành bào tử, do đó nhanh chóng chết trong môi trường. Viên nang của vi sinh vật này cũng không có.

Làm thế nào để nhiễm trùng xảy ra?

Nhiễm trùng ở người xảy ra do hít phải, nhỏ giọt trong không khí. Nguồn lây nhiễm là một bệnh nhân bị bệnh hoặc mang mầm bệnh, trong đó nồng độ tối đa của vi khuẩn được ghi nhận trong màng nhầy của đường hô hấp. Đặc biệt nguy hiểm là những người mang bệnh ở dạng không có triệu chứng. Cũng nguy hiểm là những bệnh nhân hồi phục sau bệnh bạch hầu. Người ta tin rằng sự giải phóng vi khuẩn từ màng nhầy của đường hô hấp khi nghỉ dưỡng có thể kéo dài đến 15-22 ngày sau khi giảm (hoặc biến mất hoàn toàn) các triệu chứng lâm sàng. Đôi khi, nhiễm trùng có thể xảy ra thông qua tiếp xúc, thông qua các vật dụng gia đình bị nhiễm bệnh hoặc bàn tay bẩn. Trong trường hợp này, bạch hầu của da hoặc niêm mạc xảy ra. Nhiễm trùng thực phẩm Casuistic hiếm khi xảy ra, nguyên nhân là do sự xâm nhập tích cực của các sản phẩm thực phẩm như bơ hoặc sữa do mầm bệnh bạch hầu.

Ai có thể mắc bệnh bạch hầu?

Mẫn cảm với bệnh bạch hầu corynebacteria cao đến mức bất cứ ai cũng có thể bị nhiễm với xác suất gần như 100%. Sau khi chủng ngừa hoặc bị bệnh trước đó, một người sẽ được miễn dịch suốt đời để ngăn ngừa tái nhiễm trùng. Đối với trẻ sơ sinh, kháng thể của mẹ đáng tin cậy bảo vệ cơ thể của chúng trong sáu tháng đầu đời.

Điều này thật thú vị! Bạch hầu đề cập đến những căn bệnh phản ánh trình độ văn hóa của xã hội loài người. Các nhà nghiên cứu của Liên Hợp Quốc đã chỉ ra rằng dịch bạch hầu chỉ xảy ra ở những quốc gia mà người dân từ chối tiêm phòng. Với việc tuân thủ tất cả các quy tắc tiêm chủng, căn bệnh này có thể được khắc phục hoàn toàn.

Cơ chế phát triển bệnh

Như đã đề cập ở trên, tác nhân gây bệnh của bệnh lý được mô tả đi vào cơ thể, vượt qua các hàng rào bảo vệ của màng nhầy (khoang miệng, mắt, đường tiêu hóa). Hơn nữa, sự sinh sản tích cực của corynebacteria xảy ra trong khu vực cổng vào. Sau đó, tác nhân gây bệnh bắt đầu tích cực sản xuất các chất độc hại cho cơ thể gây gián đoạn công việc của nhiều cơ quan và mô. Ngoài ra, các độc tố này gây ra hoại tử các tế bào biểu mô niêm mạc (hoại tử), sau đó là sự hình thành của một màng xơ. Nó được gắn chặt vào các mô xung quanh trong amidan, và không thể loại bỏ nó bằng thìa trong quá trình kiểm tra bệnh nhân. Đối với các phần xa hơn của đường hô hấp (khí quản và phế quản), ở đây nó không được hàn quá chặt vào các mô bên dưới, cho phép nó tách ra và cắm vào lòng ống dẫn khí, dẫn đến nghẹt thở.

Một phần của chất độc đã xâm nhập vào máu có thể gây ra sưng các mô ở vùng cằm. Mức độ của nó là một đặc điểm chẩn đoán phân biệt quan trọng, cho phép phân biệt bệnh bạch hầu với các bệnh lý khác.

Triệu chứng của bệnh bạch hầu

Các triệu chứng của bệnh lý được mô tả khác nhau đáng kể tùy thuộc vào con đường mà mầm bệnh đã xâm nhập vào cơ thể. Cũng nên lưu ý rằng có những dạng không triệu chứng và không có triệu chứng của bệnh, những dấu hiệu trong giai đoạn đầu là vô cùng khó nhận biết.

Ở dạng cổ điển của bệnh (bạch hầu hầu họng), được ghi nhận trong 90-95% trường hợp, người này có các triệu chứng sau:

– đột nhiên nhiệt độ cơ thể tăng lên, các triệu chứng nhiễm độc xuất hiện: nhức đầu dữ dội, mệt mỏi, suy nhược. Một đứa trẻ nghịch ngợm và có thể từ chối ăn;

– do tác dụng độc hại của độc tố corynebacterium trên hệ thống tuần hoàn, một sự co thắt tổng quát của các mạch nhỏ phát triển. Trên lâm sàng, nó biểu hiện như một làn da nhợt nhạt, đôi khi có một vết sạm. Ngoài ra, sự gia tăng hoạt động của tim có thể phát triển, nhưng huyết áp có thể giảm xuống mức quan trọng;

– đặc trưng bởi đau họng nghiêm trọng. Khi kiểm tra, amidan có màu đỏ, hơi sưng và màng dày, màu trắng nhạt được tìm thấy trên bề mặt của chúng. Nếu bạn cố gắng tách chúng bằng thìa hoặc thìa, bạn sẽ tìm thấy một bề mặt chảy máu dưới chúng. Tuy nhiên, không thể làm sạch bề mặt amidan bằng phương pháp “cơ học” đơn giản, vì trong vòng 20-24 giờ, các màng mới được hình thành tại vị trí của các màng bị loại bỏ. Thật thú vị, không giống như các cuộc tấn công khác có thể được tìm thấy trên amidan, phim bạch hầu có những đặc điểm riêng. Ngay cả các bác sĩ của Zemstvo cũng nhận thấy rằng nếu chúng được đặt trong bể chứa nước, chúng sẽ nhanh chóng chìm xuống;

– Các hạch bạch huyết, nằm ở khu vực dưới màng cứng, tăng đáng kể. Nếu bạn cố gắng sờ nắn chúng, bệnh nhân sẽ cảm thấy đau dữ dội.

Trong hầu hết các trường hợp, các cuộc tấn công trong bệnh bạch hầu chỉ giới hạn ở amidan và không vượt ra ngoài chúng. Nếu chúng được tìm thấy trong các phần khác của khoang miệng, thì chúng đang nói về một dạng phổ biến của bệnh, có tiên lượng rất bất lợi.

Biến thể Suboxic của bệnh bạch hầu khác với các dạng bệnh được mô tả ở trên. Nó được đặc trưng bởi mức độ nghiêm trọng hơn của các dấu hiệu chung và cục bộ của bệnh, cũng như sự xuất hiện của một triệu chứng mới – sưng mô mỡ dưới da ở cổ, đôi khi có thể là một bên.

Đặc biệt nguy hiểm là biến thể độc hại của bệnh bạch hầu hầu họng, trong hầu hết các trường hợp phát triển ở người lớn. Nó có thể là do một phiên bản địa phương của bệnh không được điều trị, và có thể xảy ra gần như ngay lập tức sau khi bị nhiễm trùng. Biểu hiện của nó như sau:

nhiệt độ cơ thể rất cao (39 0 С trở lên), ớn lạnh và đổ mồ hôi đáng kể;

viêm họng rất rõ rệt, đôi khi chúng có thể cong;

rối loạn hệ thần kinh được biểu hiện bằng kích động mạnh, đôi khi do ảo giác, ảo tưởng;

hiếm khi có sự co thắt mạnh của cơ hô hấp;

da có màu hồng, chỉ với hình thức đau đớn của bệnh có thể nhợt nhạt của khuôn mặt;

huyết áp thấp, nhịp tim cao;

amidan và niêm mạc hầu họng màu đỏ tươi, đôi khi có màu tím. Trong tình trạng viêm nghiêm trọng của các tuyến vòm miệng, chúng có thể bị sưng đến mức gần như đóng hoàn toàn lối vào thanh quản.

Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của phù cằm và cổ, các giai đoạn của dạng bạch hầu độc hại được phân biệt:

Giai đoạn 1: sưng đến khoảng một nửa cổ;

Giai đoạn 2: Phù đến mức xương đòn;

Giai đoạn 3: phù xuống dưới xương đòn.

Bệnh bạch hầu biến thể Hypertoxic được chẩn đoán tương đối không thường xuyên. Trong hầu hết các trường hợp, họ bị ảnh hưởng bởi những người có cơ thể bị suy yếu do bất kỳ bệnh lý đồng thời (nhiễm HIV, tiểu đường, v.v.). Về mặt biểu hiện lâm sàng, nó giống với dạng độc hại của bệnh, nhưng trong trường hợp này, các biến chứng của các cơ quan nội tạng, ví dụ, DIC, là đặc trưng. Với sự chăm sóc y tế kịp thời, bệnh nhân có thể chết sớm nhất là 1 ngày kể từ khi bắt đầu có dấu hiệu lâm sàng.

Bạch hầu của mũi thuộc về các biến thể địa phương của bệnh. Nó được đặc trưng bởi các dấu hiệu lâm sàng sau đây: các triệu chứng nhiễm độc là nhẹ, thở qua mũi khó khăn, tiết dịch nhầy hoặc có máu. Khi nhìn vào gương mũi, bạn có thể thấy rằng có những vết xói mòn trên màng nhầy, cũng như tiền gửi màng, dễ dàng được loại bỏ. Rất thường xuyên, biến thể bạch hầu này được kết hợp với tổn thương màng nhầy của mắt hoặc thanh quản.

Bạch hầu là một loại bệnh được mô tả trong các tác phẩm của nhiều tác phẩm kinh điển của văn học Nga. Hãy nhớ rằng, với những gì cống hiến, các bác sĩ Zemstvo đã hút những bộ phim fibrinous từ cổ họng của trẻ nhỏ! Có hai dạng bệnh lý này:

nội địa hóa Từ đồng nghĩa của nó là bạch hầu thanh quản;

chung Hình thức này được đặc trưng bởi các tổn thương của các khu vực hoại tử xơ của các phần dưới của hệ thống phế quản-phổi.

Bạch hầu phát triển theo luật nhất định. Có ba giai đoạn chính của bệnh, lần lượt thay thế nhau:

Rối loạn tiêu hóa. Đặc trưng bởi giọng nói bị suy yếu: anh ta trở nên khàn khàn, xuất hiện tiếng ho khan, thô ráp. Những triệu chứng này tồn tại ở một bệnh nhân đến 7 ngày.

Hẹp. Giọng nói trở nên khó nghe, và tiếng ho gần như im lặng. Làn da của bệnh nhân tái nhợt, anh ta bồn chồn, vội vã trên giường hoặc quanh phòng. Hít thở khó khăn đến mức các khu vực dễ thở của hít vào ngực bị hút vào.

Tiền tố. Da trở nên nhợt nhạt, huyết áp giảm xuống gần như bằng không. Xung hầu như không thể phát hiện. Hơi thở là thường xuyên, hời hợt. Với sự tuyệt chủng của ý thức có thể xuất hiện co giật .

Rất quan trọng là thực tế là các giai đoạn được mô tả của bệnh bạch hầu được phát hiện rõ nhất ở trẻ em. Còn đối với người trưởng thành, họ có những biểu hiện duy nhất của dạng bệnh này có thể là khàn giọng, và ho.

Mắt bạch hầu là cực kỳ hiếm. Nó có thể biểu hiện bằng một màu đỏ đơn giản của màng nhầy hoặc bằng cách hình thành các màng đặc trưng.

Chẩn đoán bệnh bạch hầu

Để thiết lập sự hiện diện của một bệnh như bạch hầu ở bệnh nhân, chương trình kiểm tra sau đây phải được thực hiện:

thu thập các khiếu nại (nhiều trong số chúng được liệt kê ở trên), làm quen với lịch sử của bệnh;

kiểm tra bệnh nhân với các phép đo huyết áp, nhịp tim bắt buộc;

đo nhiệt độ;

tham khảo ý kiến ​​bác sĩ tai mũi họng với việc thực hiện nội soi thanh quản. Phương pháp nghiên cứu này nhằm mục đích phát hiện các màng trong thanh quản và phù nề của màng nhầy của nó;

gieo một vết bẩn từ amidan trên môi trường dinh dưỡng. Đồng thời, ở những bệnh nhân có hình ảnh lâm sàng đặc trưng của bệnh, cũng như ở những người giao tiếp với bệnh nhân và người mang vi khuẩn, chẩn đoán được xác nhận ngay cả khi thu được kết quả gieo hạt âm tính;

xét nghiệm máu lâm sàng. Đối với bệnh bạch hầu được đặc trưng bởi sự gia tăng số lượng bạch cầu, tăng ESR, giảm số lượng tiểu cầu.

Làm thế nào để điều trị bệnh bạch hầu?

Cần nhớ rằng việc tiến hành các biện pháp điều trị trong trường hợp bệnh bạch hầu trên cơ sở ngoại trú đều bị cấm! Tất cả bệnh nhân phải nhập viện bắt buộc.

Loại thuốc chính nhằm loại bỏ tác nhân gây nhiễm trùng là huyết thanh chống bệnh bạch hầu, chế độ điều trị được xác định theo độ tuổi và mức độ nghiêm trọng của tình trạng bệnh nhân. Trước khi dùng thuốc này, phải kiểm tra da để phát hiện xem bệnh nhân có bị dị ứng hay không. Khi nhận được kết quả tích cực từ việc giới thiệu từ chối huyết thanh.

Hướng điều trị thứ hai là giải độc cơ thể và bổ sung cân bằng nước và điện giải. Điều này dẫn đến việc giảm nồng độ chất độc trong máu, cải thiện hoạt động của hệ thống tim mạch. Cả hai dung dịch keo và tinh thể được sử dụng. Nếu huyết áp không ổn định, có thể sử dụng hormone glucocorticosteroid (ví dụ: thuốc tiên dược).

Với sự thất bại của thanh quản, đe dọa phù nề và ngạt sau đó, việc hít phải được thực hiện bằng cách sử dụng thuốc co mạch và thuốc kháng histamine (suprastin). Ngoài ra, các hormon tiêm tĩnh mạch (prednison, hydrocortison).

Nếu không thể điều trị các rối loạn hô hấp trong điều trị, bệnh nhân được chuyển đến phòng chăm sóc đặc biệt, nơi anh ta được theo dõi suốt ngày đêm. Nếu cần thiết, bệnh nhân được kết nối với máy thở.

Xuất viện chỉ được thực hiện với điều kiện bạn nhận được kết quả âm tính gấp đôi của chất nhầy gieo hạt từ mũi và cổ họng. Nếu có kết quả dương tính, bệnh nhân vẫn nằm viện ngay cả khi không có bất kỳ dấu hiệu nào của bệnh. Sau khi xuất viện, bạn có thể bắt đầu làm việc ngay trong một nhóm có tổ chức.

Ở những người được công nhận là người mang vi khuẩn, liệu pháp kháng sinh được thực hiện để phục hồi chức năng của nhiễm trùng. Các loại thuốc đã sử dụng như clindamycin và cephalothin.

Phòng chống bạch hầu

Như đã đề cập ở trên, cách chính để ngăn ngừa căn bệnh này là tiêm chủng chủ động cho dân số. Đối với điều này, trẻ em được tiêm DPT theo lịch tiêm chủng. Đối với người lớn, họ được tiêm vắc-xin ADS-M cứ sau 10 năm.