Top 7 # Xem Nhiều Nhất Xem Cách Chữa Bệnh Quai Bị Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Mgwbeautypageant.com

Bệnh Quai Bị Bao Lâu Thì Khỏi? Cách Chữa Bệnh Quai Bị

Bệnh quai bị bao lâu thì khỏi?

Bệnh nhân mắc quai bị đều phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển của bệnh. Đó là thời kỳ ủ bệnh, thời kỳ khởi phát, thời kỳ toàn phát, giai đoạn phục hồi.

Thời kỳ ủ bệnh

Bệnh nhân khi tiếp xúc với virus gây bệnh thông qua việc tiếp xúc với người đang mắc bệnh, dùng chung những vật dụng cá nhân như bàn chải đánh răng, quần áo, khăn mặt,…chung với người bệnh. Thời kỳ ủ bệnh sẽ kéo dài từ 14 đến khoảng 15 ngày, trong thời gian này, người bệnh không có những biểu hiện cụ thể để có thể phát hiện ra sớm bệnh quai bị.

Thời kỳ khởi phát

Sau một thời gian ủ bệnh kéo dài, lúc này, virus gây bệnh sẽ phát triển gây nên những tác động tiêu cực tới sức khỏe người bệnh. Giai đoạn này kéo dài khoảng một đến hai ngày và người bệnh sẽ có những biểu hiện như: Đau họng và góc hàm, toàn thân có dấu hiệu mệt mỏi, khó chịu, đau đầu. Ngoài ra, người bị bệnh quai bị sẽ xuất hiện những cơn sốt, cơ thể suy nhược. Đặc biệt, vùng tuyến mang tai bắt đầu to dần và có hiện tượng đau nhức.

Thời kỳ toàn phát

Thời kỳ toàn phát thường mất khoảng một tuần. Trong một tuần này, cơ thể có nhiều sự thay đổi bất thường mà đặc biệt là vùng tuyến mang tai sẽ bị sưng to. Ban đầu xuất hiện ở một bên tai và sau đó lan sang bên còn lại.

Thời kỳ phục hồi

Sau khoảng một tuần xuất hiện những dấu hiệu trên, giai đoạn phục hồi sẽ được bắt đầu với biểu hiện đầu tiên đó là vùng hàm không còn sưng to nữa. Bên cạnh đó, những triệu chứng đau nhức và sốt cũng dần mất đi. Quai bị có thời gian gây bệnh trên cơ thể khá lâu. Thông thường, từ khi ủ bệnh đến khi người bệnh có dấu hiệu phục hồi hoàn toàn thường mất khoảng 20 đến 21 ngày. Tuy nhiên, thời gian này có thể kéo dài thêm hoặc rút ngắn lại còn tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe bệnh nhân cũng như cách điều trị bệnh quai bị như thế nào.

Cách chữa bệnh quai bị

Hiện nay không có một loại thuốc nào có thể điều trị triệt để vi rút gây bệnh quai bị. Mọi sự nỗ lực của y học đều tập trung vào việc giảm triệu chứng và tăng sức đề kháng cho hệ miễn dịch để phòng tránh mắc căn bệnh này. Bệnh nhân mắc quai bị cần phải được nghỉ ngơi hợp lý trong suốt giai đoạn mắc bệnh. Không nên lao động nặng nhọc, việc làm này rất nguy hiểm vì chúng có thể gây ra những biến chứng tới các cơ quan khác.

Một chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp người bệnh mau chóng hồi phục. Khi mắc bệnh quai bị, người bệnh nên chú ý phải uống thật nhiều nước, đây là cách giảm sưng vùng tuyến mang tai hiệu quả. Hạn chế sử dụng các loại thực phẩm có tính axit vì sẽ kích thích các dây thần kinh ở tuyến mang tai và gây đau nhiều hơn. Việc ăn đồ nếp như xôi, bánh chưng,…là nguyên nhân khiến cho vùng hàm bị sưng to bất thường. Trong giai đoạn mắc bệnh, những thức ăn dạng lỏng, thức ăn dễ nuốt sẽ phù hợp hơn rất nhiều cho bệnh nhân. Thói quen sinh hoạt của tác động rất nhiều tới việc điều trị căn bệnh này. Khi mắc quai bị, người bệnh nên chú ý không được tắm nước lạnh và ngâm mình quá lâu trong nước. Ngoài ra, hạn chế ra gió thường xuyên. Việc làm này sẽ khiến cho vùng quai hàm bị sưng to đồng thời còn là nguồn lây nhiễm bệnh tật cho người khác. Sự kết hợp đồng thời các phương pháp điều trị này sẽ khiến cho bệnh nhân hồi phục rất nhanh chóng và phòng tránh được những biến chứng có thể xảy ra cho cơ thể.

Phòng tránh bệnh quai bị như thế nào?

Nguyên Nhân Bệnh Quai Bị Và Cách Chữa Trị Hiệu Quả

Bệnh quai bị lây qua đường nước bọt, ăn uống, có thể gây vô sinh. Hiện nay chỉ có thể phòng bệnh quai bị bằng tiêm vắc xin.

Theo Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương, mùa đông xuân là mùa bệnh quai bị xuất hiện nhiều nhất. Quai bị do virus paramyxovirus gây nên. Bệnh quai bị (còn được gọi là bệnh viêm tuyến mang tai dịch tễ hay viêm tuyến mang tai do virus quai bị) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây trực tiếp bằng đường hô hấp, hay gây thành dịch trong trẻ em, thanh thiếu niên do virus quai bị gây nên.

Biểu hiện lâm sàng phổ biến nhất là viêm tuyến nước bọt mang tai không hóa mủ. Là một bệnh truyền nhiễm, thường xảy ra vào mùa đông – xuân. Lây trực tiếp khi gần bệnh nhân nói, ho hoặc hắt hơi.

Bệnh có trên toàn thế giới và chỉ xuất hiện ở người. Bệnh thường hay gặp ở trẻ nhỏ và lứa tuổi vị thành niên, người lớn cũng có thể mắc nhưng tỷ lệ là thấp hơn. Bệnh do virus lây truyền qua đường hô hấp và đường ăn uống, qua những giọt nước bọt khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi.

Vấn đề lây qua đường phân và nước tiểu hiện vẫn chưa được xác nhận dù virus quai bị có khả năng tồn tại trong nước tiểu khoảng 2-3 tuần. Khi bị nhiễm bệnh, virus nhân lên trong khoang tỵ hầu và hạch bạch huyết. Virus tăng cao trong huyết thanh khoảng 12-15 ngày sau nhiễm và lan ra các cơ quan khác. Thời gian lây là từ 6 ngày trước cơn toàn phát sưng tuyến mang tai cho đến 2 tuần sau khi có triệu chứng bệnh lý.

Bệnh có đặc điểm dịch tễ rõ ràng, thường phát vào mùa xuân, nhất là trong khoảng thời gian tháng 4 và tháng 5, trong các môi trường tập thể như trường học, nhà trẻ. Tuổi nào cũng có thể bị bệnh quai bị, khả năng mắc bệnh ở nam cao hơn nữ.

Tuy nhiên ít gặp quai bị ở trẻ dưới 2 tuổi mặc dù trẻ chỉ được bảo vệ trong 6 tháng đầu nếu mẹ đã từng mắc bệnh quai bị. Sau 2 tuổi, tần suất bệnh tăng dần, đạt đỉnh cao ở lứa tuổi 10-19. Sau khi tiếp xúc với virus quai bị khoảng 14-24 ngày, người bệnh có cảm giác khó chịu, ăn kém, sốt, đôi khi rét, đau họng và đau góc hàm. Tuyến mang tai sưng to dần trong khoảng 3 ngày rồi giảm sưng dần trong khoảng 1 tuần.

Tuyến mang tai có thể sưng 1 bên hay 2 bên. Nếu sưng cả 2 bên thì 2 tuyến có thể không sưng cùng lúc, tuyến 2 bắt đầu sưng khi tuyến 1 đã giảm sưng. Vùng sưng thường lan đến má, dưới hàm, đẩy tai lên trên và ra ngoài; có khi lan đến ngực gây phù trước xương ức.

Bệnh nhân có cảm giác đau ở vùng tuyến bị sưng nhưng da trên vùng sưng không nóng và không sung huyết, ngược với những trường hợp viêm tuyến mang tai do vi khuẩn. Lỗ ống Stenon ở niêm mạc má 2 bên sưng đỏ, có khi có giả mạc. Bệnh nhân có cảm giác khó nói, khó nuốt, đôi khi phù thanh môn gây khó thở phải mở khí quản. Thời gian biểu hiện bệnh lý khoảng 10 ngày.

Tuy nhiên có khoảng 25% người bị nhiễm virus quai bị mà không có dấu hiệu bệnh lý rõ rệt, đây là những đối tượng có khả năng truyền bệnh mà người xung quanh không nhận biết. Bệnh quai bị gây miễn dịch bền vững khi đã mắc bệnh dù sưng 1 hay 2 bên tuyến mang tai nên ít khi bị quai bị lần 2.

Cho đến nay biến chứng của quai bị khiến nhiều người lo sợ đó là khả năng gây vô sinh. Đối với biến chứng viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn: Biến chứng này có tỷ lệ 20-35% ở người sau tuổi dậy thì mắc bệnh quai bị, thường xảy ra sau đợt viêm tuyến mang tai khoảng 7-10 ngày nhưng cũng có thể xuất hiện trước hoặc đồng thời.

Tinh hoàn sưng to, đau, mào tinh căng phù như một sợi dây thường. Tình trạng viêm và sốt kéo dài 3-7 ngày, sau đó khoảng 50% số trường hợp tinh hoàn teo dần và có thể dẫn đến tình trạng giảm số lượng tinh trùng và vô sinh.

Nhồi máu phổi: Là tình trạng một vùng phổi bị thiếu máu nuôi dưỡng, có thể tiến đến hoại tử mô phổi. Nhồi máu phổi là biến chứng có thể xảy ra sau viêm tinh hoàn do quai bị vì hậu quả của huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến.

Viêm buồng trứng: Có tỷ lệ 7% ở nữ sau tuổi dậy thì, ít khi dẫn đến vô sinh .

Viêm tụy: Có tỷ lệ 3-7%, là một biểu hiện nặng của quai bị. Bệnh nhân bị đau bụng nhiều, buồn nôn, có khi tụt huyết áp.

Các tổn thương thần kinh: Viêm não có tỷ lệ 0,5%, bệnh nhân có các hiện tượng như: thay đổi tính tình, bứt rứt, khó chịu, nhức đầu, co giật, rối loạn tri giác, rối loạn thị giác, đầu to do não úng thủy. Tổn thương thần kinh sọ não dẫn đến điếc, giảm thị lực, viêm tủy sống cắt ngang, viêm đa rễ thần kinh.

Bệnh quai bị ở phụ nữ có thai: Những phụ nữ bị quai bị trong 3 tháng đầu của thai kỳ có thể gây sẩy thai hoặc sinh con dị dạng, trong 3 tháng cuối của thai kỳ có thể sinh non hoặc thai chết lưu.

Một số biến chứng khác: Viêm cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, viêm thần kinh thị giác (gây giảm thị lực tạm thời), viêm thanh khí phế quản, viêm phổi, rối loạn chức năng gan, xuất huyết do giảm tiểu cầu. Vì viêm tuyến mang tai còn có thể gây ra do các virus khác (Coxackie, Influenza), do vi trùng (Staphylococcus aureus), do tắc ống dẫn tuyến nước bọt vì sỏi và viêm tinh hoàn còn có thể do lao, Leptospirose, lậu nên trong một số trường hợp khó chẩn đoán, bệnh nhân cần thực hiện một số xét nghiệm như: Phân lập virus từ máu dịch họng, dịch tiết từ ống Stenon, nước tiểu hay dịch não tủy. Các phản ứng huyết thanh học: Test ELISA, miễn dịch huỳnh quang, trung hoà bổ thể.

Vaccin phòng bệnh quai bị có tác dụng kích thích cho trẻ em sản sinh kháng thể kháng quai bị kháng thể đạt mức độ cao nhất sau khi tiêm chủng 6 – 7 tuần. Số lần tiêm: Nếu bắt đầu tiêm từ 9 tháng tuổi: tiêm 3 lần, lần 1 lúc 9 tháng tuổi, lần 2 sau lần 1 sáu tháng, lần 3 khi trẻ từ 4-12 tuổi. Nếu bắt đầu tiêm từ 12 tháng tuổi: tiêm 2 lần, lần 1 lúc 12 tháng tuổi lần 2 từ 4-12 tuổi.

Tiêm chủng khẩn cấp được chỉ định cho trẻ từ 12 tháng tuổi, trẻ vị thành niên và người lớn nếu đã có tiếp xúc với bệnh nhân quai bị nhưng chưa có tiền sử mắc quai bị và chưa được tiêm chủng theo lịch phòng bệnh quai bị. Trong trường hợp không có chống chỉ định, vaccin cần được tiêm không muộn hơn 72 giờ kể từ khi có tiếp xúc với bệnh nhân.

Quai bị là một căn bệnh khá phổ biến, bệnh này tuy không thật nguy hiểm đến tính mạng con người nhưng lại gây ra nhiều ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và những biến chứng khó lường khác.

Chính vì vậy việc tìm hiểu nguyên nhân triệu chứng của bệnh quai bị đóng một vai trò vô cùng quan trọng để bệnh nhân nhanh chóng phát hiện ra bệnh nhằm có phương pháp chữa trị thích hợp đồng thời tránh xa những nguyên nhân có thể gây bệnh phổ biến.

Nguyên nhân, triệu chứng bệnh quai bị Nguyên nhân gây bệnh quai bị – Bệnh quai bị xuất hiện trên khắp thế giới, không phân biệt giới tính, tuổi tác, tuy nhiên bệnh hay gặp ở trẻ nhỏ, tuổi vị thành niên, người lớn cũng có thể mắc bệnh nhưng với tỷ lệ thấp hơn tuy nhiên biến chứng ở người lớn lại nguy hiểm hơn. Mỗi người chỉ bị quai bị 1 lần, ít khi bị tái phát lần 2.

– Nguyên nhân gây bệnh quai bị là do virus Paramyxovirus lây truyền qua đường hô hấp và đường ăn uống, qua những giọt nước bọt khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi, do đó bệnh rất dễ lây truyền qua đường hô hấp, đường phân và nước tiểu vì virus quai bị có thể tồn tại trong nước tiểu, phân từ 2-3 tuần tùy theo môi trường.

– Do cơ thể có sức đề kháng yếu nên dễ bị virus tấn công gây viêm.

– Do cơ thể bệnh nhân bị các rối loạn chuyển hóa như bị suy dinh dưỡng hoặc mắc bệnh đái tháo đường, xơ gan gây viêm tuyến mang tai;

– Do bệnh nhân bị phản ứng với một số loại thuốc: phenylbutazone, thiouracil, các thuốc chứa iốt gây viêm, sưng tuyến mang tai;

Triệu chứng bệnh quai bị Bệnh quai bị thể nhẹ: Sưng đau 1 bên hoặc 2 bên mang tai, vùng má dưới tai đau và sưng dần lên. Rêu lưỡi trắng, không sốt hoặc chỉ sốt nhẹ, cơ thể mệt mỏi, nếu không có biến chứng và bệnh nhân được chăm sóc tốt, sau 4-5 ngày bệnh sẽ khỏi hẳn;

– Khi mới mắc bệnh, bệnh nhân thấy khó chịu, sợ gió, nhức đầu, đau trước tai. Sau đó một bên tuyến mang tai bắt đầu sưng, rồi 2 – 3 ngày hôm sau lan sang bên kia. Chỗ sưng đau nhưng không tấy đỏ, da bóng lên, ấn không lún, không hoá mủ, họng hơi đỏ;

– Khi mắc bệnh quai bị thể nặng bệnh nhân sẽ bị nóng sốt kéo dài, có khi lên đến 40 độ C, sau đó thuyên giảm dần, phần lớn chỉ sau hơn 1 tuần đến 10 ngày bệnh sẽ tự khỏi hẳn nếu không gặp các biến chứng khác;

– Khi bị bệnh quai bị thể nặng có thể khiến nam giới bị viêm tinh hoàn và nữ giới bị viêm buồng trứng, đây là những biến chứng rất nguy hiểm của căn bệnh này: Thông thường triệu chứng này có thể xuất hiện sau khi bệnh nhân bị bệnh quai bị từ 5-10 ngày, khi ấy bệnh nhân bị sốt cao trở lại, cơ thể mệt mỏi, có khi mê sảng, tinh hoàn sưng to, đỏ tây, đau, trường hợp biến chứng nặng có thể sưng cả 2 bên tinh hoàn và gây vô sinh.

Khi bị viêm tinh hoàn, khoảng 10 ngày sau thì cảm giác đau, sưng tấy không còn nhưng bệnh nhân cần kiểm tra và tái khám cẩn thận vì sau 2 tháng mới biết được tinh hoàn bị teo hay không và có bị vô sinh hay không;

– Một biến chứng khác của bệnh quai bị thể nặng có thể bị viêm màng não, viêm não, viêm tụy tạng, viêm cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, tổn thương thần kinh nhưng nếu được chăm sóc, chữa trị kịp thời sẽ khỏi hẳn và không để lại bất cứ di chứng nào đối với người bệnh;

– Đặc biệt bệnh quai bị ở phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu của thai kỳ còn có thể gây sẩy thai hoặc sinh con dị dạng, trong 3 tháng cuối của thai kỳ có thể sinh non hoặc thai chết lưu, rất nguy hiểm.

Là một căn bệnh khá phổ biến với nhiều biến chứng khó lường, chính vì vậy việc tìm hiểu các nguyên nhân, triệu chứng bệnh quai bị sẽ giúpchúngta biết cách tránh xa những nguyên nhân có thể gây bệnh, có biện pháp chủ động phòng ngừa và nhanh chóng nhận diện ra bệnh để có biện pháp chữa trị bệnh quai bị, ngăn ngừa các biến chứng nguy hiểm khác.

(Blogsudo Tổng Hợp)

Từ khóa tìm kiếm: quai bi,

Bệnh Quai Bị: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Cách Điều Trị Quai Bị

1. Quai bị là gì?

Bệnh quai bị là một loại bệnh truyền nhiễm cấp tính có tên dân gian là má chàm bàm do virus Paramyxo gây ra. Đối tượng có nguy cơ mắc bệnh cao nhất là trẻ em từ 2 đến 14 tuổi với các biểu hiện chính như sưng đau tuyến mang tai. Bệnh quai bị có thể để lại nhiều biến chứng nghiêm trọng do làm ảnh hưởng đến tinh hoàn, buồng trứng, vú, não, màng não và tuyến tụy.

2. Nguyên nhân gây bệnh quai bị

Tác nhân gây bệnh:

Do virus quai bị thuộc họ Paramyxovirus gây ra. Tốc độ lây truyền của virus trong cộng động rất nhanh, có khả năng trở thành dịch ở trẻ em.

Đường lây truyền:

Chủ yếu truyền nhiễm qua con đường hô hấp, người bệnh truyền sang người lành chưa có kháng thể chống lại virus quai bị.

Khi người bệnh hắc hơi, ho hoặc nói virus sẽ theo các giọt nước bọt, dịch tiết mũi họng ra ngoài không khí hoặc bám vào vật dụng cá nhân như khăn, chén, đũa, ly uống nước, đồ chơi của trẻ em,… Virus xâm nhập vào người lành do hít phải hoặc sử dụng các đồ dùng đã nhiễm virus.

Thời kỳ lây truyền:

Thời gian ủ bệnh khoảng 16 đến 18 ngày tùy vào nguồn lây nhiễm.

Người mắc bệnh có thể lây truyền cho người lành trước khi sưng mang tai khoảng 1 tuần và kéo dài thêm 2 tuần sau đó.

Thời kỳ lây truyền mạnh nhất khoảng tầm 2 ngày trước khi người bệnh bị viêm tuyến mang tai.

Nguy cơ mắc bệnh quai bị:

– Tiếp xúc trực tiếp với người bệnh.– Khu vực sinh sống tập thể như trường học, nhà trẻ, khu vui chơi giải trí,…– Độ tuổi bị quai bị thường là trẻ em dưới 15 tuổi chưa được tiêm phòng vắc-xin.– Người có hệ miễn dịch suy yếu.– Sử dụng chung các đồ dùng trong sinh hoạt hằng ngày.

3. Triệu chứng của bệnh quai bị

Những dấu hiệu, triệu chứng để nhận biết bệnh quai bị phổ biến nhất là sốt, mệt mỏi, sưng và đau tuyến mang tai. Người bệnh có thể trải qua các giai đoạn sau:

Giai đoạn ủ bệnh: thường 2-3 tuần lễ và không có biểu hiện cụ thể.

Giai đoạn khởi phát:

Ban đầu sốt, có thể sốt cao đột ngột.Cơ thể mệt mỏi, đau đầu, suy nhược, đau nhức cơ.Chán ăn, mất ngủ.Đau họng và đau góc hàm.Sưng bên má gây đau khi nhai, nuốt, nói chuyện.

Giai đoạn toàn phát:

Tuyến nước bọt sưng to và đau một bên rồi lan bên còn lại. Hai bên sưng không đối xứng, không hóa mủ.

Quan sát vùng da bị sưng thấy căng, bóng, không bị đỏ, chạm vào thấy nóng và bệnh nhân đau mạnh.

Ở một số người có thể sưng rất to làm biếng dạng khuôn mặt.

Triệu chứng kéo dài trong 3 ngày sau đó giảm dần trong 1 tuần.

Giai đoạn lành bệnh:

Sau khi gây sưng và đau ở tuyến mang tai người bệnh chuyển sang giai đoạn lành bệnh khoảng 1 tuần: giảm sưng, giảm đau, dễ nuốt và hết từ từ.

Biến chứng nguy hiểm của quai bị:

Một trong những biến chứng đáng lo ngại của bệnh quai bị là có thể làm ảnh hưởng đến các cơ quan khác đặc biệt là cơ quan sinh sản.

Ở nam giới: viêm tinh hoàn (10 – 30%), nếu không được chữa trị kịp thời có thể gây teo tinh hoàn và sẽ gây vô sinh nếu tinh hoàn bị teo cả hai bên. Nếu có thấy tinh hoàn sưng to, căng bóng, đỏ, đau cần phải theo dõi điều trị ngay.

Ở nữ giới: viêm buồng trứng (7%), gây sảy thai và sinh con bị dị dạng.

Các cơ quan khác: viêm não, màng não, viêm tụy, viêm cơ tim, viêm thần kinh thính giác, viêm tuyến giáp.

Các kỹ thuật chẩn đoán bệnh quai bị:

– Thăm khám và hỏi lịch sử bị bệnh quai bị.– Sử dụng các phương pháp xét nghiệp như: Vật liệu di truyền của virus (RT-PCR), xét nghiệm kháng thể IgM và IgG, nuôi cấy virus.

4. Điều trị bệnh quai bị

Hiện nay bệnh quai bị chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu là điều trị các triệu chứng và phòng ngừa biếng chứng.

Bệnh nhân sẽ tự khỏi bệnh từ 7 – 10 ngày, các bác sĩ sẽ dựa vào từng giai đoạn, triệu chứng để kê thuốc thích hợp.

Các nguyên tắc điều trị:

Vệ sinh vùng miệng sạch sẽ bằng kem đánh răng và các dung dịch sát khuẩn để phòng ngừa nhiễm khuẩn.Sử dụng thuốc hạ sốt và giảm đau.Uống nhiều nước, bù điện giải nếu sốt cao, mất nước.Bệnh nhân nghỉ ngơi tại chỗ, hạn chế tiếp xúc với người khác và nên đeo khẩu trang tránh lây truyền cho cộng đồng.Theo dõi và điều trị chống viêm tinh hoàn, viêm buồng trứng, viêm não, viêm thính giác, viêm tụy.

5. Phòng ngừa bệnh quai bị

Một số biện pháp giúp phòng ngừa tốt bệnh quai bị:

– Đối với trẻ em cần tiêm vắc-xin theo lịch tiêm chủng quốc gia.– Cung cấp kiến thức cho người dân bằng các tuyên truyền, giáo dục đến các bậc phụ huynh có con nhỏ, cán bộ nhà trường,…– Không tiếp xúc trực tiếp hoặc dùng chung đồ với người đang mắc bệnh.– Giữ vệ sinh cá nhân và môi trường sống sạch sẽ.– Tập luyện thể thao và có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi khoa học.– Các ly người bệnh quai bị cho tới khi hết hẳn nhất là ở trường học, nhà trẻ,…

Bệnh Quai Bị Ở Trẻ Em (P2): Cách Chăm Sóc Trẻ Bị Bệnh Quai Bị

Bệnh quai bị ở trẻ em có nguy hiểm không và nên chăm sóc trẻ như thế nào để mau phục hồi luôn là thắc mắc của các bậc phụ huynh khi bé yêu của mình không may mắc phải.

Cách chăm sóc trẻ bị bệnh quai bị

– Cần cho trẻ một chế độ nghỉ ngơi hợp lý: không cho trẻ vận động nhiều, đặc biệt trong trường hợp trẻ sưng tinh hoàn thì trẻ cần được nghỉ ngơi tuyệt đối.

– Chế độ dinh dưỡng: không kiêng cữ, cần cho trẻ ăn uống đầy đủ, thông thường các bé bị quai bị ăn uống rất khó khăn, cần phải chọn thức ăn mềm, dễ nuốt, nhiều chất dinh dưỡng để tăng sức đề kháng cho cơ thể.

– Nếu trẻ sốt hoặc quá đau, có thể cho trẻ uống thuốc giảm sốt.

– Cho trẻ uống nhiều nước.

– Không cho trẻ ra ngoài để tránh gió, nên giữ trẻ trong nhà cho đến khi vùng sưng tấy có dấu hiệu giảm.

Đặc biệt phải cách ly trẻ, không đưa trẻ mắc bệnh đến trường, các khu vực vui chơi công cộng vì có thể lây bệnh cho những bạn khác (thường nên giữ trẻ trong nhà ít nhất chín ngày).

– Vệ sinh cá nhân và tẩy uế sát trùng các chất dịch tiết ra.

– Tránh tự ý bôi hoặc đắp, phun những loại thuốc dân gian ở tuyến mang tai đề phòng nhiễm độc.

– Dùng thuốc hạ sốt, an thần, giảm đau cho trẻ. Hãy hỏi ý kiến bác sĩ nếu trẻ có triệu chứng đau đầu dữ dội, nôn thốc.

Cách phòng ngừa bệnh quai bị cho trẻ

– Nên tiêm văcxin chủng ngừa cho trẻ khi trẻ được 12 tháng, và tiêm mũi nhắc lại khi trẻ được 4 tuổi.

– Thường xuyên cho trẻ rửa tay với xà phòng, đảm bảo vệ sinh cá nhân hằng ngày; làm sạch đường hô hấp bằng cách súc miệng với dung dịch nước muối hoặc các dung dịch sát khuẩn đường mũi họng.

– Hạn chếcho trẻ tiếp xúc với người bị bệnh. Hạn chế tới những nơi tập trung đông người, đặc biệt tại các phòng chật hẹp nơi đang có dịch. Tăng cường sức đề kháng cho trẻ bằng ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, thể dục thể thao và nghỉ ngơi hợp lý.